Tuesday, November 10, 2009

Hai Thế Hệ Một Tâm Tình





Hai Thế Hệ, Một Tâm Tình:

HẢI QUÂN TRUNG TÁ LÊ BÁ HÙNG USN, HẠM TRƯỞNG
KHU TRỤC HẠM USS LASSEN






Nguyễn Mạnh Trí & Trần Đỗ Cẩm

(Viết để riêng tặng anh chị Lê Bá Thông và cháu Lê Bá Hùng Ngày 30 tháng 4 năm 2009)
Lưy ý: Tác giả giữ bản quyền. Các cơ quan truyền thông ngôn luận muốn phổ biến, vui lòng liên lạc qua
Email: camtran11@yahoo.com. Thành thật cám ơn.





Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng triệu nguời Việt đã phải rời quê cha đất tổ tỵ nạn Cộng Sản, sống rải rác tại hầu hết các quốc gia tự do trên thế giới. Riêng tại Hoa Kỳ, cộng đồng người Việt sinh sống lên tới gần hai triệu người, trong số này có rất nhiều cựu quân nhân cũng như công chức Việt Nam Cộng Hòa. Thế hệ di dân đầu tiên này đã tích cực tham gia và khá thành công trong việc hội nhập vào xã hội mới. Tới nay, sau trên 30 năm định cư, người Việt tỵ nạn đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển và phồn thịnh của những quê hương thứ hai của mình.
Đặc biệt tại Hoa Kỳ, những đóng góp của người Việt tỵ nạn đã được thể hiện rõ ràng trong mọi lãnh vực quan trọng như kinh tế, chính trị, khoa học, xã hội, y tế, tài chánh v.v… Nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, mẹ đẻ của bom áp nhiệt, kỹ sư Đoàn Chính Trung, hiện là một trong những phó chủ tịch của Micron Corporation ở thành phố Boise thuộc tiểu bang Idaho, đã được cấp tới 132 bằng sáng chế. Tại trường danh tiếng thế giới Massachusetts Institute of Technology mà mọi người thường biết đến qua cái tên đọc ngắn gọn là MIT, anh Nguyễn Tuệ đã đạt được một kỷ lục phi thường: Đậu 5 bằng cử nhân, từ Vật Lý và Toán Học cho tới Kỹ Thuật Điện Tử, để rồi sau cùng lấy thêm bằng cao học và bằng tiến sĩ về Kỹ Thuật Nguyên Tử Lực. Như thế, anh Tuệ đã đoạt được bẩy văn bằng trong vòng bẩy năm tại một trong những đại học kỹ thuật nổi tiếng vào hạng nhất nước Mỹ. Ngoài ra, theo một ước lượng hết sức dè dặt, hiện nay ở Hoa Kỳ có vào khoảng 4,200 bác sĩ gốc Việt đang hành nghề. Như vậy, cứ trong một ngàn người chúng ta lại có 4 bác sĩ. Đa số các gia đình nguời Mỹ gốc Việt đều có con em tốt nghiệp bác sĩ, kỹ sư, là những nghề nghiệp được coi là cao qúi tại Hoa Kỳ.
Riêng về địa hạt quân sự, những thành quả lại càng nổi bật, có lẽ vì một số con cháu người Việt tỵ nạn là hậu duệ của các cựu quân nhân QLVNCH. Tiếp nối ý chí và binh nghiệp của cha anh đã bất thần bị gián đoạn, thế hệ thứ hai này đã gia nhập mọi quân binh chủng thuộc quân lực Hoa Kỳ trong và đạt được nhiều thành quả rỡ ràng.
Trước đây, một thanh niên gốc Việt đã được Tổng Thống Hoa Kỳ W. J. Clinton nhắc đến trong một bài diễn văn quan trọng như một gương thành công đặc sắc của người Việt ở Mỹ. Đó là anh Trần Như Hoàng, tốt nghiệp thủ khoa từ trường Sĩ Quan Không Quân Hoa Kỳ ở Colorado Springs. Sau này, anh Hoàng lại được học bổng Rhodes - một học bổng rất danh tiếng - để đi tu nghiệp ở Anh Quốc trước khi trở về theo học và tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại đại học Harvard. Hiện nay, anh Hoàng là bác sĩ phục vụ trong quân chủng không quân Mỹ, chuyên về giải phẫu vi ti, làm việc tại thành phố San Antonio, tiểu bang Texas. Chị Hoàng cũng là bác sĩ.
Vào năm 1999, những ai theo dõi trên truyền hình về lễ mãn khóa tại Trường Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ ở Annapolis đều đã thấy một thiếu nữ Việt Nam là cô Nguyễn Thị Cẩm Vân. Năm đó, cô Vân tốt nghiệp Á Khoa trong một lớp có tới 737 sinh viên sĩ quan gồm cả nam lẫn nữ. Cách đây không lâu, chúng ta đã được nghe nói tới nữ Đại Úy phi công Elizabeth Phạm của Binh Chủng TQLC Hoa Kỳ, là người phụ nữ Việt Nam và cũng người phụ nữ Á Châu đầu tiên, trong lịch sử Không Quân Hoa Kỳ đã là phi công của một oanh tạc cơ chiến đấu tối tân F-18 Hornet. Đại Úy Elizabeth Phạm là nữ phi công thuộc loại cừ khôi, phục vụ trong Phi Đoàn 242 xuất sắc nhất của TQLC Hoa Kỳ (Marine All Weather Attack Fighter Squadron 242). Ðây là những phi công thượng thặng có thể yểm trợ cận phòng rất chính xác, đôi khi chỉ cách quân bạn vài trăm thước. Năm 2005 cô đã đeo lon Đại Úy, bây giờ chắc cấp bậc và chức vụ đã cao hơn nếu còn trong quân đội.
Bên binh chủng nhảy dù, cũng có Đại Tá Lương Xuân Việt đã nhận chức Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 thuộc Sư Đoàn 82 Dù vào ngày 5 tháng 2 năm 2009 vừa qua. Trước đó khi còn đeo lon Trung Tá, ông là Tiểu Đoàn Truởng Tiểu Đoàn 2 Dù cũng thuộc Sư Đoàn 82. Thân phụ của Đại Tá Việt là Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến Lương Xuân Đương, từng phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Gia đinh Thiếu Tá Đương rời Việt Nam năm 1975 và định cư tại Hoa Kỳ. Đại Tá Việt cùng vợ và ba con hiện nay ở hậu cứ Fort Campbell, tiểu bang Kentucky.
Gần đây nhất, chúng ta lại nhận được tin mừng, đó là Hải Quân Trung Tá Lê Bá Hùng vừa được bổ nhiệm vào chức vụ Hạm Truởng Khu Trục Hạm USS Lassen (DDG 82) của Hải Quân Hoa Kỳ. Lễ bàn giao đã đuợc cử hành vào ngày 23 tháng 4, 2009 tại căn cứ hải quân Hoa Kỳ ở Yokosuka, Nhật Bản. Việc bổ nhiệm này là một diễn biến khá quan trọng trong quân sử Hoa Kỳ vì đây là lần đầu tiên, một sĩ quan Hải Quân nguời Mỹ gốc Việt được làm Hạm Truởng một chiến hạm tối tân trong lực lượng hải quân mạnh nhất thế giới, do đó chúng tôi sẽ dành nhiều thời gian để nói về việc bổ nhiệm hạm trưởng có tầm vóc lịch sử này.
Ai cũng biết hiện nay Hải Quân Hoa Kỳ được xem như là mạnh nhất trên thế giới với nhiều chiến hạm tối tân hàng đầu có mặt trên khắp các đại dương cũng như tại các phần đất xa xôi hẻo lánh trên thế giới. Giống như các “đế quốc” Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Anh Quốc truớc đây, chính nhờ lực luợng hải quân này mà Hoa Kỳ có thể giữ vững ngôi vị cường quốc hạng nhất, bảo vệ quyền lợi cũng như nhanh chóng can thiệp tại bất cứ điểm nóng nào trên thế giới. Ngoài những chiến hạm và phi cơ tối tân, Hải Quân Hoa Kỳ còn có những sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên nhiều kinh nghiệm, được huấn luyện tinh nhuệ.
Riêng trong lãnh vực tuyển lựa cấp chỉ huy, chỉ có một số rất nhỏ sĩ quan đuợc chọn và đặc biệt huấn luyện để trở thành hạm truởng, nhất là trên các chiến hạm chủ lực như Hàng Không Mẫu Hạm, Tuần Dương Hạm, Khu Trục Hạm hay Tiềm Thủy Đỉnh nguyên tử. Theo truyền thống hải quân, vị hạm trưởng được coi là có uy quyền tối thượng như một vị lãnh chúa trên chiến hạm chỉ đứng sau Thượng Đế, do đó huy hiệu hạm truởng có ghi hàng chữ La Tinh “Magister Post Deum” (Chúa tể chỉ sau Thượng Đế). Do đó, chỉ những sĩ quan xuất sắc nhất mới được đề nghị làm hạm trưởng. Cũng theo luật hàng hải quốc tế, một chiến hạm mang cờ hiệu của quốc gia nào được coi như lãnh thổ của quốc gia đó khi hải hành cũng như khi cập bến tại các hải cảng ngoại quốc, và vị đại diện của lãnh thổ nối dài đó chính là Hạm Trưởng. Vì vậy, trong thời đệ nhị thế chiến, khi Nhật Bản buộc phải ký văn kiện đầu hàng chấm dứt chiến tranh tại Thái Bình Dương, họ phải ký trên Thiết Giáp Hạm Missouri của Hoa Kỳ bỏ neo tại vịnh Tokyo.
Vì chức vụ hạm trưởng quan trọng và quyền hành rộng lớn như vậy nên giấc mơ của bất cứ sĩ quan hải quân nào cũng là được nhận quyền chỉ huy của một chiến hạm chủ lực. Đặc biệt theo truyền thống hải quân Hoa Kỳ, chức vụ Hạm Trưởng là chỉ hiệu cho biết con đường binh nghiệp đang thênh thang phía truớc và nếu không phạm lỗi lầm nào nghiêm trọng sẽ có nhiều triển vọng lên tới hàng đô đốc trong tương lai,
Sau đây chúng tôi sẽ tường thuật sơ luợc về buổi lễ bàn giao quyền chỉ huy khu trục hạm USS Lassen (DDG 82), rồi sẽ trình bày tiểu sử của tân hạm trưởng HQ Trung Tá Lê Bá Hùng, giới thiệu sơ lược về thân phụ của ông là một cựu sĩ quan HQ/QLVNCH cùng truyền thống gia đình và sau hết sẽ nói qua về chiến hạm USS Lassen.
Theo tài liệu chính thức của Hải Quân Hoa Kỳ, tân hạm truởng Lê Bá Hùng đã nhậm chức vào ngày 23 tháng 4 trong một buổi lễ trang trọng được tổ chức tại quân cảng Yokosuka, Nhật Bản. Lễ bàn giao đã được diễn ra trọng thể giữa cựu Hạm Trưởng là HQ Trung Tá Anthony Simmons và tân Hạm Trưởng HQ Trung Tá Lê Bá Hùng dưới sự chủ tọa của Phó Đề Đốc Kevin Donegan, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 70/75 (Task Force hay TF 70/75) kiêm Tư Lệnh Chiến Đoàn Mẫu Hạm 5 và kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Tác Chiến Đệ Thất Hạm Đội (Battle Force Seventh Fleet). Chiến hạm Lassen là một thành phần của Phân Đoàn Khu Trục Hạm 15 (Desron 15) thuộc Lực Lượng Tác Chiến Tiền Phương Hải Quân Hoa Kỳ đồn trú tại căn cứ Hải Quân Yokosuka. Các chiến hạm thuộc Hạm Đội 7 Hoa Kỳ có nhiệm vụ tuần tiễu và bảo vệ an ninh khu vực Thái Bình Dương, bao gồm Biển Đông là một điểm nóng đang có sự tranh chấp giữa Trung Quốc và các quốc gia vùng Đông Nam Á, nhất là với Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Như vậy chiến hạm của Trung Tá Hùng có thể sẽ được gửi tới hoạt động tại vùng biển Việt Nam, nơi thân phụ ông đã khởi đầu hải nghiệp cách đây gần nửa thế kỷ.
Bài diễn văn nhậm chức của tân hạm trưởng ngắn và gọn, trong đó ông tỏ lòng tri ân Hải Quân Hoa Kỳ đã tạo cơ hội thuận lợi để một sĩ quan gốc Á Châu như ông có cơ hội thăng tiến, và đặc biệt cám ơn thân phụ là cựu Trung Tá HQ/QLVNCH Lê Bá Thông mà ông luôn luôn kính trọng như một vị anh hùng.
Cơ quan truyền thông nổi tiếng Asahi Shimbun của Nhật cũng có bài viết đặc biệt, trong đó ca ngợi tân hạm trưởng Lê Bá Hùng là nguời Mỹ gốc Việt đầu tiên đảm nhận chức vụ hạm trưởng một chiến hạm lớn của Hoa Kỳ. Tờ báo Nhật cũng cho biết Trung Tá Hùng tuyên bố ông rất hâm mộ văn hóa Nhật và được làm hạm trưởng môt chiến hạm đặt căn cứ tại Yokosuka là “giấc mơ số 1” của ông. Nhân dịp này, cơ quan truyền thông Nhật cũng dành nhiều cảm tình và tỏ ý thán phục về những thành công vuợt bực của người Việt tỵ nạn Cộng Sản đã phải bỏ nước ra đi. Về tiểu sử, được biết HQ Trung Tá Lê Bá Hùng sinh ra tại thành phố Huế, Việt Nam, trong một gia đình nề nếp và lớn lên tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Năm 1988, ông tốt nghiệp Thủ Khoa (Valedictorian) tại trường trung học Gar-Field High School tại Woodbridge, được tuyển chọn và tình nguyện theo học ở US Naval Academy ở Annapolis, Maryland và tốt nghiệp ưu hạng năm 1992 với văn bằng Cử Nhân về Kinh Tế.
hiệm sở biển đầu tiên của ông là phục vụ trên Tuần Dương Hạm USS Ticonderoga (CG 47) ở Norfolk, VA với chức vụ Auxiliaries Officer and First Lieutenant từ tháng 2, 1993 cho đến tháng 4, 1996. Ông được thăng cấp Trung Úy vào tháng 5, 1994. Trong nhiệm kỳ này, chiến hạm được ân thuởng Battle Efficiency Award đầu tiên và tăng phái cho hạm đội Ðịa Trung Hải. Sau đó, ông giữ chức Fire Control Officer trên USS WASP (LHD 1) ở Norfolk, Virginia từ tháng 4, 1996 cho đến tháng 12, 1997. Ông được thăng cấp Ðại Úy vào tháng 6, 1996. Trong thời gian này, Ðại Úy Hùng được chứng nhận đủ khả năng đảm nhiệm chức vụ Tactical Action Officer.
Tháng 12, 1999, ông tốt nghiệp ưu hạng trường Naval Post Graduate School với bằng Cao Học Khoa Học về Operations Research. Vào tháng 6, 2000, ông tốt nghiệp Non Resident Seminar Program tại trường Naval War College. Sau đó, ông được chỉ định phục vụ trên chiến hạm USS HUE CITY (CG 66) trong chức vụ Weapons Officer. Tuần Dương Hạm HUE CITY (CG-66) thuộc loại Ticonderoga class, được mang tên HUE CITY để kỷ niệm trận đánh Tết Mậu Thân 1968 ở Huế trong đó có sự tham dự của 1 Trung Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (gồm có Tiểu Đoàn 1/Trung Đoàn 1, Tiểu Đoàn 1/Trung Đoàn 5, Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 5 và các đơn vị phụ thuộc). Đây là chiến hạm độc nhất của Hoa Kỳ mang tên một thành phố Việt Nam. Thật là một sự trùng hợp lý thú khi một sĩ quan nguời Mỹ gốc Việt phục vụ trên một chiến hạm Hoa Kỳ mang tên một thành phố Việt Nam. Tháng 5 năm 2001, Ðại Úy Hùng được chỉ định làm Combat Systems Officer và được thăng cấp Thiếu Tá vào tháng 7, 2002. Trong thời gian này, chiến hạm được trao tặng 3 Battle Efficiency Awards và đuợc chỉ định họat động tại The Horn of Africa, Northern Arabian Sea và Arabian Gulf, yễm trợ cuộc hành quân Operation Enduring Freedom.
Từ tháng 9, 2003 cho đến tháng 10, 2004, ông phục vụ tại phân bộ Requirements, Policy, and Experimentation của Ðệ Nhị Hạm Ðội Hoa Kỳ. Ðầu năm 2005, ông tốt nghiệp ưu hạng tại Touro University International với bằng Cao Học về Business Administration in Military Management.
Sau đó ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Hạm Phó Khu Trục Hạm USS CURTIS WILBUR (DDG 54) tại Yokosuka, Nhật Bản từ tháng 3, 2005 cho đến tháng 12, 2006.
Ông được tưởng thưởng các huy chương: The Defense Meritorious Service Medal, the Meritorious Service Medal, the Navy/Marine Corps Commendation Medal (4 awards), and the Navy/Marine Corp Achievement Medal (2 awards). Trong các cuộc phỏng vấn, Trung Tá Hùng đã cho biết sự thành công và những buớc tiến dài trong cuộc đời binh nghiệp của ông là nhờ gia đinh và những thủy thủ, những nguời đã dẫn dắt ông đi suốt con đường binh nghiệp. Ông cảm ơn gia đình ông, đã cho tình thương và sự hỗ trợ. Ông cũng cảm ơn tất cả những người lãnh đạo và thủy thủ mà ông đã làm việc suốt 17 năm qua, không có họ ông sẽ không có được ngày hôm nay. Đặc biệt, tân hạm truởng còn trang trọng nhấn mạnh đến truyền thống gia đinh Việt Nam và nhất là thân phụ của ông là cựu HQ Trung Tá Lê Bá Thông, một cấp chỉ huy xuất sắc được rất nhiều người mến mộ trong Hải Quân VNCH trước đây. Ông cũng cho biết cung cách và tinh thần trách nhiệm của cha ông đối với quân đội cũng như gia đinh đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định gia nhập Hải Quân của ông. Trung Tá Hùng đã đề cao thân phụ mà hải nghiệp đột ngột bị chấm dứt, là “nguời hùng” của mình; vì vậy ông đã quyết định theo bước chân của cha. Trung Tá Hùng còn cho biết: ”Lòng yêu nước của tôi đối với quốc gia đã niềm nở tiếp đón tôi và gia đinh tôi, cũng đã ảnh huởng đến quyết định gia nhập vào Hải Quân của tôi”. Ông muốn đền trả và phục vụ cho xứ sở này. "Chúng tôi mang ơn, một món nợ ơn nghĩa lớn đối với Hoa Kỳ”. Như vậy, tân hạm trưởng đã tỏ ra là người có tình có nghĩa, và chắc hẳn những ngày thơ ấu theo cha sống trong các doanh trại sơ sài của Hải Quân VNCH tại vùng giới tuyến đã ảnh hưởng không ít đến binh nghiệp của ông sau này. Vậy thân phụ ông, cựu HQ Trung Tá Lê Bá Thông là người như thế nào mà được tân hạm trưởng một chiến hạm thuộc loại tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ sùng kính và đề cao như vậy?
Chúng tôi có chút may mắn đuợc biết Hải Quân Trung Tá Lê Bá Thông tại truờng Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang vào khoảng đầu thập niên 60, khi anh đang theo học khóa 10 SQHQ Nha Trang, và là Liên Đại Đội Trưởng hai Đại Đội Sinh Viên Sĩ Quan khóa 10 và 11 Sĩ Quan Hải Quân. Dù mới chỉ gặp mặt lần đầu, ai cũng công nhận anh là một sĩ quan hải quân lý tưởng. Cao lớn, đẹp trai, thông minh, anh tốt nghiệp Thủ Khoa khóa 10 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang rất xứng đáng. Trong buổi lễ ra trường, anh được đích thân Tổng Thống Ngô Đình Diệm trao kiếm chỉ huy với sự chứng kiến của Hải Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân lúc bấy giờ.
Khi ra truờng, sau một thời gian phục vụ trên các chiến hạm, với tư cách sĩ quan thủ khoa, tuy có thể thuyên chuyển về những đơn vị bờ tương đối an toàn, nhưng anh lại tình nguyện gia nhập những đơn vị tác chiến nguy hiểm nhất, và anh đã lập được nhiều chiến công quan trọng. Sau đây là phần sơ luợc về tiểu sử của anh.
Hải Quân Trung Tá Lê Bá Thông theo học khóa 10 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, tốt nghiệp năm 1962, sau đó được gửi sang Hoa Kỳ nhận lãnh Hải Vận Hạm Hậu Giang HQ 406 tại Seattle vào năm 1963. Về nuớc, ông tiếp tục hải nghiệp, đảm nhiệm chức vụ Hạm Phó Trục Lôi Hạm HQ 116 vào năm 1964 tức là chỉ hai năm sau ngày ra truờng. Đây là một thành quả ít sĩ quan hải quân nào có thể đạt được. Tới năm 1965, ông từ bỏ sự an toàn của tàu đi biển, tình nguyện gia nhập Lực Lượng Hải Tuần thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải, Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu. Đây là đơn vị đặc biệt của Hải Quân chuyên đảm trách những công tác mật phía Bắc vĩ tuyến 17. Tại đây, ông được bổ nhiệm làm hạm truởng PTF 6 là loại khinh tốc đỉnh tối tân nhất vào thời bấy giờ.
Ông tiếp tục phục vụ tại Sở Phòng Vệ Duyên Hải cho tới năm 1969 thì được chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng chiến dịch “Hổ Biển” hoạt động tại vùng cửa Đại, sông Thu Bồn, Hội An, với nhiệm vụ hết sức nặng nề và nguy hiểm vì phải dùng những giang đinh nhõ khai thông nhiều thủy lộ do địch kiểm soát. Năm 1970, ông làm Chỉ Huy Truởng Căn Cứ Hải Quân Đà Nẵng. Năm 1972, ông đuợc cử làm Quân Sự Vụ Phó Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một chức vụ đặc biệt rất quan trọng trong việc đào tạo những sĩ quan chỉ huy đa năng, đa hiệu cho quân đội cũng như cấp lănh đạo trong tương lai. Là một sĩ quan Hải Quân mà được tuyển chọn giữ chức vụ quân sự vụ phó trong một trường Lục Quân nổi tiếng như trường Võ Bị Đà Lạt, ông đã chứng tỏ được tài ba và khả năng đặc biệt của mình. Sau đó ông lần lượt đảm nhiệm nhều chức vụ then chốt như Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hành Quân Biển tại Cam Ranh, Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 32 Xung Phong tại Huế, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Cửa Việt, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Đặc Nhiệm 231.1 tại cửa Thuận An. Ông đã chiến đấu cho tới giờ phút chót tại đơn vị sau cùng là Căn Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Nhà Bè. Ông di tản cùng gia đình sang Hoa Kỳ vào năm 1975.
Đọc qua tiểu sử và cuộc đời binh nghiệp của cựu Hải Quân Trung Tá Lê Bá Thông, ta thấy ông là một sĩ quan xuất sắc, từng đảm nhiệm nhiều chức vụ tham mưu cũng như tác chiến quan trọng. Cậu bé Lê Bá Hùng xưa kia khi còn ở Việt Nam, chắc chắn cũng đã hấp thụ đuợc nhiều tinh anh của nguời cha, nên bây giờ mới trở thành môt hạm trưởng trẻ tuổi với tương lai sáng lạn trong Hải Quân Hoa Kỳ. Hai thế hệ, một tâm tình, cùng chung giấc mơ hồ hải! Thành thật chúc mừng “Hổ Biển” Lê Bá Thông đã có hậu duệ Lê Bá Hùng nối đuợc chí cha.
Trở về với chiến hạm USS Lassen, tuởng cũng nên biết, Hải Quân Hoa Kỳ có thông lệ dùng tên những vị anh hùng để đặt tên cho các khu trục hạm. DDG 82 được mang tên Lassen để vinh danh một anh hùng hải quân Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1968, Ðại Úy Lassen, lúc mới 27 tuổi, được lệnh chỉ huy chiếc trực thăng UH-2 Sea Sprite cứu cấp 2 phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi sâu trong rừng rậm Bắc Việt. Khi đến địa điểm 2 phi công ẩn nấp, Ðại Úy Lassen đã cố gắng xác định địa điểm vớt nhiều lần không thành công vì rừng rậm, hỏa lực của địch cũng như dấu hiệu không rỏ ràng của bạn. Cuối cùng, Ðại Úy Lassen quyết định mở đèn chiếu sáng duới thân phi cơ cho các phi công lâm nạn nhận dạng bất chấp nguy hiểm để lộ mục tiêu cho địch. Sau khi vớt được 2 phi công và nhiên liệu gần cạn, Ðại Úy Lassen vận chuyển phi cơ tránh đạn phòng không của địch và đáp xuống chiến hạm an toàn với nhiên liệu chỉ còn trong 5 phút. Một cuộc hành quân tìm kiếm và cứu cấp thông thuờng đã trở thành một huyền thoại về sự can đảm. Cuộc cứu cấp ngày 19 tháng 6 năm 1968 đã được mọi người thuộc Helicopter Combat Squadron Seven truyền tụng và được xem như là một trong những hành động dũng cảm nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Ðại Úy Lassen là phi công đầu tiên và là người thứ 5 trong Hải Quân Hoa Kỳ được ân thuởng huy chương Medal of Honor.
DDG 82 là loại khu trục hạm lớn và có hỏa lực mạnh nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, thường được gọi là loại “Aegis”. Theo truyền thuyết Hy Lạp, Aegis là tên tấm khiên che ngực của thần Zeus và nữ thần Athena, vì vậy HQ Hoa Kỳ dùng tên “Aegis” để xếp hạng các chiến hạm chuyên dùng để hộ tống và phòng thủ các chiến hạm chủ lực như Hàng Không Mẫu Hạm. Thông thường, trong một Hải Chiến Đoàn Mẫu Hạm (Carrier Battle Group) bao giờ cũng có nhiều chiến hạm “Aegis” và tiềm thủy đỉnh để bảo vệ mẫu hạm chống lại các sự đe dọa tấn công có thể có của phi cơ địch từ trên không, chiến hạm địch trên mặt biển cũng như tàu ngầm của địch.
Tiện đây cũng nên nói qua về lịch sử của các khu trục hạm “Aegis” loại “Arleigh Burke”, tên của một vị Đô Đốc Hoa Kỳ chỉ huy hải đoàn Khu Trục Hạm rất nổi tiếng trong thời đệ nhị thế chiến tại Thái Bình Dương. Chiến hạm đầu tiên trong loại là DDG 51 mang tên Arleigh Burke bắt đầu được xử dụng từ năm 1991, chiếc mới nhất gia nhập hạm đội vào tháng 6 năm 2008 là USS Sterett (DDG 104). Hiện nay còn nhiều chiến hạm cùng loại đã hạ thủy nhưng còn đang trang bị vũ khí hay chạy thử nên chưa chính thức hoạt động. Chiến hạm được đề cập nhiều nhất trong loại này có lẽ là USS Cole (DDG 67) bị đặt chất nổ khi cập bến nhận tiếp tế tại Yemen vào tháng 4 năm 2002.
Có thể nói các khu trục hạm loại Arleigh Burke hiện là lực lượng chính trong việc phòng thủ và bảo vệ hạm đội khi tác chiến vì được trang bị với hệ thống radar đặc biệt, có khả năng phát hiện, theo dõi và bắn hạ nhiều mục tiêu khác nhau cùng một lúc. Chiến hạm đuợc chế tạo hoàn toàn bằng thép, thay vì nhôm để làm giảm trọng tải. Khu trục hạm này trị giá $800 triệu mỹ kim. Tiền phí tổn hoạt động hàng năm lên tới 20 triệu mỹ kim.
Sau đây là môt số chi tiết liên quan đến khu trục hạm Lassen. Chiến hạm này do hãng Ingalls Shipbuilding chế tạo, khởi công ngày 6 tháng giêng năm 1995, hạ thủy ngày 24 tháng 8 năm 1998, hoàn tất ngày 16 Tháng 10 năm 1999, hoạt động ngày 21 tháng Tư, 2001, đồn trú tại căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ Yokosuka, Nhật Bản. Thủy thủ đoàn gồm có 23 sĩ quan và 300 thủy thủ. Chiến hạm có trọng tải 9,200 tấn, chiều dài 509 ft 6 in (155.3 m), chiều rộng 66 ft (20 m), chiều sâu 31 ft (9.4 m). Máy chính gồm 4 máy General Electric loại LM2500-30 gas turbines, 2 chân vịt, tổng cộng 100,000 mã lực, tốc độ lên tới 30+ gút (55+ km/h). Chiến hạm cần có tốc độ nhanh để hộ tống các mẫu hạm nguyên tử có vận tốc trên 30 gút. Về hỏa lực, chiến hạm được trang bị rất mạnh gồm các hỏa tiễn hải đối không RIM-66 Standard để bắn hạ phi cơ và hỏa tiễn địch, hỏa tiễn hải đối hải Harpoon để bắn tầu địch và hỏa tiễn ASROC chống tấu ngầm. Ngoài ra còn có hỏa tiển hành trình (cruise missile) Tomahawk để đánh chính xác vào các mục tiêu trên đất liền. Đặc biệt các giàn hỏa tiễn đều thuộc loại phóng thẳng (vertical launch) dấu kín trong lòng tầu, không để trong các ống phóng nằm xéo trên thân tầu. Về hải pháo, chiến hạm có 1 khẩu đại bác 127 ly, 2 khẩu đại bác 25 ly và 4 khẩu đại liên 12 ly 7, 2 giàn phóng ngư lôi MK-32 và 2 phi cơ trực thăng loại SH-60 Sea Hawk. Đặc biệt chiến hạm còn được trang bị 2 giàn vũ khí Phalanx “Yểm Trợ Cận Phòng” (Close In Weapons System, viết tắt là CIWS) để tự vệ. Loại vũ khí này chuyên dùng để bắn hạ những hỏa tiễn do chiến hạm hay máy bay địch bắn, đã xâm nhập được những hàng rào phòng thủ bên ngoài của hạm đội, đang bay đến gần chiến hạm. Khi phát hiện hỏa tiễn địch tới gần, giàn Phalanx sẽ tự động điều khiển giàn súng đại bác 20 ly 6 nòng, theo dõi và nhắm vào mục tiêu, bắn ra khoảng 4,000 viên đạn một phút để tạo một hàng rào thép chận đường bay, tiêu hủy hỏa tiễn địch truớc khi bắn trúng chiến hạm.
Một đặc điểm khác là giàn radar phòng không AN/SPY-1D xử dụng kỹ thuật mới “phased array”. Các radar xài antenne loại cũ quay một vòng 360 độ nên chỉ nhìn thấy mục tiêu 1 lần trong mỗi vòng quay, khi tia radar đụng vào mục tiêu và dội lại, do đó cần phải có một radar thứ nhì nhắm thẳng lúc nào cũng nhìn thấy mục tiêu để kịp thời hướng dẫn hỏa tiễn của mình lúc nào cũng bám sát mỗi khi mục tiêu thay đổi đường bay hầu dễ dàng bắn hạ. Kỹ thuật mới “phased array” dùng 4 radar cố định hướng về 4 phía do computer điều khiển nên lúc nào cũng đồng bộ và “bám” được mục tiêu. Do đó chúng ta thấy trên các chiến hạm mới không còn những giàn radar với antenne khổng lồ quay tròn trên đỉnh cột buồm mà thay vào đó bằng radar loại mới được “giấu” bên trong đài chỉ huy với 4 mặt antenne quay về 4 phía. Lợi điểm của loại radar “phased array” là có thể phát hiện, theo dõi cũng như huớng dẫn hỏa tiễn nhắm vào nhiều mục tiêu cùng một lúc. Phối hợp với hệ thống tự động phóng các hỏa tiễn do computer điều khiển, các mục tiêu sẽ bị tiêu diệt dễ dàng. Trong thời gian gần đây, một số khu trục hạm loại “Aegis” đã bắt đầu được thử nghiệm để trang bị hỏa tiển chống tên lửa liên lục địa cũng như hỏa tiển phá vệ tinh của địch
Chúng ta thấy hiện nay tại Biển Đông, việc tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam ngày càng trầm trọng. Truớc áp lực nặng nề của người láng giềng khổng lồ phương Bắc, chắc chắn Cộng Sản Việt Nam sẽ phải tìm lối thoát bằng cách dựa lưng vào một thế lực thứ ba để làm điểm tựa sống còn. Nhìn vào thế chiến lược toàn cầu hiện nay, chỉ có Nga Sô và Hoa Kỳ mới có thể làm Trung Quốc kiêng nể. Nga Sô hiện chưa hoàn toàn giải quyết được vấn đề kinh tế nội bộ, quan hệ với Việt Nam chỉ giới hạn trong lãnh vực thương mãi và mua bán vũ khí. Còn lại chỉ có Hoa Kỳ mới có thể làm giảm giấc mộng bá quyền của Trung Quốc tại Thái Bình Dương. Vì quyền lợi chiến lược, Hoa Kỳ phải duy trì sự hiện diện của mình trên biển Ðông. Biết đâu trong thời điểm nào đó, khu trục hạm Lassen do Trung Tá Hùng chỉ huy sẽ là một thành phần trong lực lượng bảo vệ hòa bình cho vùng Ðông Nam Á./.

Nguyễn Mạnh Trí & Trần Đỗ Cẩm
April 2009

Saturday, November 7, 2009

Hoàng Sa 19.1.1974


Toán Biệt Hải đổ bộ lên đảo Hoàng Sa

trong cuộc hải chiến ngày 19-1-1974

Monday, February 18, 2008

Ðể tưởng nhớ Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng và các anh linh chiến sĩ VNCH đã tử trận trong cuộc hải chiến Hoàng Sa

Cuộc hải chiến Hoàng Sa đến nay đã trên 33 năm với thời gian và tuổi tác có khi người viết đã không còn nhớ hết được tất cả sự việc xảy ra lúc đó. Kính mong quí hạm trưởng và những người tham dự sẵn lòng bỏ qua. Ðồng thời xin được bổ sung những điều còn thiếu sót trong bài viết.

Phần I: Tường thuật của Biệt Hải Nguyễn Châu

Sau khi chương trình Việt Nam hóa chiến tranh được thành hình thì Trung Ðội Dân Sự Chiến Ðấu đóng ở trên đồi Hoa Sim được giải tán. Trung Ðội này trước đây chuyên lo phụ trách về vấn đề phòng thủ an ninh những nơi như Bộ Chỉ Huy Sở Phòng Vệ Duyên Hải (SPVDH/NKT/BTTM), Căn Cứ Trần Hưng Ðạo của Lực Lượng Hải Tuần và Trại 9 của Lực Lượng Biệt Hải (còn gọi là Blackrock). Ðồi Hoa Sim sau đó được chuyển giao cho các toán Biệt Hải, còn Trại 9 của Biệt Hải ở Sơn Trà thì được Bộ Chỉ Huy Biệt Hải bàn giao lại cho các Chiến Ðoàn Công Tác, thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM trú đóng.

Từ trong ngã ba Tiên Sa (Ðà Nẵng) đi ra, vừa qua khỏi trạm gác Ðài Kiểm Báo Không quân (còn gọi là Cầu Trắng) là trông thấy căn cứ Ðồi Hoa Sim, được đặt trên một mỏm núi khá thấp, nằm về bên phải và cách Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải của Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại một con đường. Trước đây, Phó Ðề Ðốc Thoại đã từng là Chỉ Huy Trưởng của Sở Phòng Vệ Duyên Hải khi còn ở cấp bậc đại tá. Trái ngược với một số tin tức bên ngoài đơn vị cho rằng Lực Lượng Biệt Hải (LLBH) đã được giải thể khi Hoa Kỳ rút quân về nước năm 1972, thực tế đã cho chúng ta thấy rằng sau khi được dời về trú đóng trên Ðồi Hoa Sim, các công tác hoạt động của Lực Lượng Biệt Hải vẫn còn tiếp tục và trực thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải/Nha Kỹ Thuật cho đến ngày cuối cùng. Bằng chứng là sau ngày đi công tác Hoàng Sa về ngày 10-4-1974, tôi nhận được văn thư của Sở mang số 0259/TTM/NKT/SPVDH/CTCT, tuyển chọn tôi (Nguyễn Châu) trong số 132 chiến sĩ xuất sắc nhất của QLVNCH trên toàn quốc để về thủ đô Sài Gòn tham dự ngày Quân Lực 19-6-1974.

Trở lại việc Biệt Hải tham chiến Hoàng Sa, trong thời gian tôi đang nghỉ phép vào một buổi sáng đẹp trời thì nhận được lệnh từ Bộ Chỉ Huy Biệt Hải nhắn, cho biết phải cấp tốc trở về trình diện đơn vị gấp để chuẩn bị đi công tác. Kinh nghiệm trước đây cho tôi biết mỗi lần được gọi khẩn cấp như thế này thường là những công tác hết sức khó khăn, chẳng hạn như chuyến đi cứu các phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi tại sông Cam Lộ, Quảng Trị-Ðông Hà vào tháng 4 năm 1972 trong Mùa Hè đỏ lửa. Lúc đó, toán của tôi chỉ có năm, sáu người nhưng đã phải len lỏi qua mặt mấy Sư Ðoàn Bắc Việt đi vào địa điểm công tác để đưa được hai phi công Hoa Kỳ trở ra an toàn, mãi cho đến nay vẫn còn hú vía! Sau khi nhận được tin lòng tôi cứ thấp thỏm suy nghĩ, không biết chuyện gì đã xẩy ra? Tôi vội mang quần áo, hôn phớt các con rồi từ giã bà xã lặng lẽ ra xe. Khi vào đến trại thì mới biết anh em trong toán đang chuẩn bị súng đạn xuống tàu để ra công tác Hoàng Sa trong vài giờ tới.

Chuyến đi này tổng cộng có 24 nhân viên Biệt Hải, trong số đó có Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải Thiếu Tá Hồ Xuân T., Trưởng Toán Nguyễn N. và tôi, toán phó kiêm tiền sát viên toán, tất cả đều trang bị toàn súng AK-47. Ngoài ra, mỗi người còn được phép mang thêm mấy khẩu M-72. Ðược biết chiếc HQ-4 Trần Khánh Dư sẽ phụ trách chở toán Biệt Hải của chúng tôi tới địa điểm công tác. Trong khi toán nhận lệnh đi Hoàng Sa thì tôi không có mặt ở trong trại. Do đó, trước khi sắp sửa lên xe, tôi được Chỉ Huy Trưởng T. và Trưởng Toán N. cho biết sơ qua tình hình trên các hải đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Ðược biết trên các hải đảo này hiện đang có một Trung đội Ðịa Phương Quân và một số chuyên viên khí tượng của VNCH trú đóng. Lần này, toán Biệt Hải nhận lệnh đổ bộ để lấy lại chủ quyền và kiểm soát các vị trí trên đảo, nơi đang có những đơn vị của Hải Quân Trung Cộng chiếm giữ.

Chiếc Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 do Hạm Trưởng Vũ Hữu San được lệnh khởi hành, rời bến tàu Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải vào sáng sớm hôm đó. Ðến xế chiều thì vị trí của tàu không còn cách xa hải đảo Hoàng Sa là bao. Nghĩa là hiện chiếc HQ-4 đang nằm trong phạm vi của nhóm đảo Cam Tuyền và Quang Hòa. Vào buổi chiều cùng ngày, 17 tháng Giêng năm 1974, Khu Trục Hạm HQ-4 đã bắt gặp 2 giang thuyền của Hải Quân Trung Cộng, đang giả dạng làm các ghe thuyền đánh cá. Trên đài chỉ huy, Hạm Trưởng liền cho tàu chạy đến gần để tìm cách kiểm soát. Trong khi đó toán Biệt Hải cùng một số thủy thủ, tất cả đứng trên thành tàu chăm chú theo dõi đều nhận thấy 2 giang thuyền Trung Cộng có nhiều điểm đáng nghi ngờ. Ngay lúc đó, Ðài Chỉ Huy trên HQ-4 phóng loa kêu gọi 2 giang thuyền Trung Cộng ngừng lại nhưng họ vẫn tỉnh khô và phớt lờ! Trong ý tưởng của anh em Biệt Hải lúc ấy rất muốn được cấp trên cho phép nhảy xuống để làm phận sự lục soát các giang thuyền này, tương tự như những chuyến Loky soát ghe bắt người tại vịnh Bắc Việt trước đây.

Lúc này, chiếc HQ-4 và một chiếc giang thuyền của Trung Cộng đều đã chạy chậm lại, khoảng cách cuối cùng cách nhau không quá một thước! Tuy nhiên, lệnh của Hạm Trưởng không cho anh em nhảy xuống tầu Trung Cộng lục soát. Bất thình lình, một con sóng lớn ập đến khiến hai chiếc tàu húc mạnh vào nhau. Chiếc tầu của Trung cộng thấp hơn nên lan can tầu của chúng bị hư hại khá nặng. Do đó, các thủy thủ Trung Cộng dưới tàu nổi nóng, một số xắn cao tay áo, còn một số thì cởi hẳn áo ra vất xuống sàn tàu, ra dấu thách thức thủy thủ và toán Biệt Hải chúng tôi nhảy xuống đánh tay đôi với chúng. Ðứng trên tàu, toán Biệt Hải thấy vậy liền cởi áo và kêu gọi đám thủy thủ Trung Cộng ở dưới tầu trèo lên nếu chúng muốn đọ sức. Ðây là màn khẩu chiến đầu tiên trong buổi chiều hai bên gặp nhau! Sau đó, chiếc HQ-4 và giang thuyền Trung Cộng tiếp tục tìm cách chạy ghìm nhau một lúc lâu mới dứt.

Hôm sau, ngày 18-1-74 lúc xế trưa, toán Biệt Hải gồm 24 người, có cả Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải đi theo, tất cả súng đạn đầy đủ nhận lệnh xuống 3 chiếc hobo thẳng hướng chạy vào đổ bộ lên đảo Cam Tuyền (Robert). Sau khi đi lục soát một vòng không thấy có quân Trung Cộng trú đóng, toán Biệt Hải đã khám phá và tịch thu được một lá cờ của Trung cộng hơi cũ, cùng một tấm bảng chủ quyền viết bằng chữ Hán, nét mực còn mới cắm trên đảo trước khi toán Biệt Hải đổ bộ vào. Ngoài ra, không còn thấy dấu vết gì khác, ngoại trừ những cây cối lưa thưa mọc cao không quá đầu người và một số cỏ gai nhọn chết khô lâu ngày, được gió biển cuốn tròn nằm lăn lóc trên mặt đất san hô và vô số phân chim! Tất cả những chi tiết trên đảo đã được vị Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải thông báo ra cho Hạm Trưởng ngoài tầu biết. Sau khi toán Biệt Hải đi ra và lên hết trên tầu rồi thì một số anh em Hải Quân lại được lệnh đổ bộ vào để canh giữ đảo Cam Tuyền. Chiếc HQ-4 được lệnh tiếp tục chạy sang hải phận của đảo Quang Hòa (Duncan). Suốt đêm đó, trên tầu đã cho mở nhiều bản nhạc hùng ca, toàn lời hay ý đẹp như để nhắc nhở bổn phận của người lính Hải Quân/QLVNCH phải hết sức giữ gìn lãnh hải và hải đảo Hoàng Sa do tiền nhân để lại, dù có phải hy sinh tánh mạng đã làm nức lòng người nghe, trong đó có toán Biệt Hải chúng tôi.

Sáng sớm ngày 19 Tháng Giêng năm 1974, lúc 5 giờ 40 sáng, toán Biệt Hải tiếp tục nhận lệnh đổ bộ lên đảo Quang Hòa (Duncan). Toán Biệt Hải của chúng tôi đã vào được đến bờ nhưng trời còn tối nên tất cả được lệnh nằm trên bờ biển chờ trời sáng. Phần lính gác Trung Cộng có lẽ không ngờ toán Biệt Hải đổ quân ban đêm nên không để ý và không hay biết gì cả. Trước khi xuống thuyền vào đảo, chúng tôi được cấp trên cho biết trên đảo hiện đang có quân Trung Cộng trú đóng. Ðến nơi, thừa lúc trời còn tối, tôi liền dẫn vài anh em đi một vòng lục soát trong phạm vi của toán, để có gì khi đụng trận sẽ dễ dàng bảo vệ nhau hơn. Lúc 7 giờ 30 sáng, khi mặt trời hướng Ðông bắt đầu ló dạng, tôi, trong nhiệm vụ tiền sát đi đầu mon men dò dẫm đã phát giác ra được một giao thông hào do quân Trung cộng đào sẵn. Tôi tiếp tục dẫn toán đi lên, nhưng vừa đi được khoảng 60 hoặc 70 thước thì gặp quân của Trung cộng đang đứng chận đầu. Hai bên thấy mặt nhau nhưng không bên nào nổ súng! Phía trước mặt, hiện chúng tôi đã nhận diện được quân số của Trung Cộng khá đông, tất cả chúng đều nằm dưới các hầm phòng thủ trong tư thế sẵn sàng tác chiến, chăm chú nhìn chúng tôi ra vẻ nghi ngờ, không biết chúng tôi là phe nào? Lý do là vì cách trang phục của toán Biệt Hải hao hao giống bộ đội du kích Bắc Việt, kể cả vũ khí trang bị.

Khi khoảng cách hai bên cách nhau không tới 4 mét thì vào lúc này, một số cấp chỉ huy và lính Trung Cộng rời hầm phòng thủ vừa đi ra, vừa nói bằng tiếng Hoa và đồng thời lấy tay ra dấu đuổi toán Biệt Hải chúng tôi rời khỏi phạm vi hải đảo. Ý chúng muốn nói đảo Quang Hòa thuộc chủ quyền của Trung cộng, muốn chiếm thì đi sang đảo khác! Ngược lại, toán Biệt Hải của chúng tôi cũng ra dấu đáp trả, ý nói đảo nầy thuộc chủ quyền của VNCH, quân Trung cộng phải rời khỏi đảo. Một bên tiếng Tầu, một bên tiếng Việt, lúc đầu không ai hiểu ai. Có lúc lời qua tiếng lại rất hăng, hai bên đã quơ tay đụng nhau. Rất may, trong toán Biệt Hải có một người Việt gốc Hoa tên Trần A Lộc, nói và hiểu được tiếng Hoa sành sỏi đứng ra thông dịch. Nãy giờ, hai bên đứng khẩu chiến với nhau đã gần một tiếng. Tình thế lúc bấy giờ hết sức căng thẳng, nhất là quân Trung Cộng nhờ sự thông dịch biết được toán Biệt Hải chúng tôi đang đứng trước mặt quyết tâm dành lại chủ quyền trên đảo của chúng. Một số lính Trung Cộng liền có thái độ rất hung hăng, nhưng rất may cuộc chạm súng của đôi bên đã không xẩy ra. Nếu không, sự thiệt hại của Biệt Hải chắc chắn không phải là nhỏ. Thấy vậy, Trưởng Toán N. liền hội ý với vị Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải và ông đã gọi ra tầu, báo cáo cho Hạm Trưởng để trình bày sự việc. Ngoài tầu lệnh cho toán Biệt Hải rút lui. Trước khi đi, tôi đã tìm một nhánh cây khô buộc lá cờ VNCH vào rồi cắm xuống trước mặt bọn chúng.

Ít phút sau, toán Biệt Hải xuống thuyền đi ra được nửa chừng thì gặp toán Hải Kích của Trung Úy Ðơn từ ngoài chạy vào. Chúng tôi liền mở máy liên lạc và cho Trung Úy Ðơn biết tình hình của quân Trung cộng ở trên bờ. Sau khi toán Biệt Hải lên được tầu HQ-4 thì bỗng nhiên nghe tin toán Hải Kích của Trung Úy Ðơn vừa có hai người bị tử thương ở phía ngoài bờ biển. Biết tình thế hiện tại thế nào cũng đánh nhau, tôi xin đề nghị Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải lên đài chỉ huy trình với Hạm Trưởng: Khi nào sẵn sàng khai hỏa thì cho HQ-4 chạy sát gần tầu của Trung Cộng, khoảng cách từ 50m đến 100m để toán Biệt Hải chúng tôi dùng M-72 bất ngờ triệt hạ các tàu của chúng. Theo ý tôi, đây là cơ hội bằng vàng để tiêu diệt bọn lính Trung Cộng, nhưng cuối cùng ý kiến của tôi đã không được Hạm Trưởng chấp thuận. Ngoài ra, Hạm Trưởng còn cho biết khi nào có hải chiến thì sẽ dùng súng lớn và chạy cách xa tầu Trung cộng khoảng 300m.

Ðến khoảng hơn 10 giờ sáng thì lệnh khai hỏa bắt đầu. Khẩu đại bác 125 ly của HQ-4 ở giữa boong, gần đầu mũi tầu chỉ bắn được 9, 10 quả đạn thì bị trở ngại tác xạ! Ngay lúc đó, tôi bị một mảnh đạn văng trúng vào đầu, máu chẩy xuống che đầy hai mí mắt. Tôi vội đứng nấp sau khẩu súng lớn đã bị hư hại, lấy khăn lau sạch vết thương rồi tìm y tá nhờ băng bó, và sau đó trở lại vị trí các ổ súng lớn trợ giúp các pháo thủ. Trong lúc 2 bên đang giao tranh dữ dội, quay mặt lại, tôi thoáng thấy Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng bị thương khá nặng, đang được anh em dìu vào phía trong. Cuộc hải chiến tiếp tục mãi cho đến 30 phút sau mới chấm dứt. Chiếc HQ-4 được lệnh rời khỏi vùng chiến, quay mũi theo hướng Nam đi về Ðà Nẵng. Khi tầu đã đi được hơn mấy tiếng đồng hồ và đã khá xa quần đảo Hoàng Sa thì bỗng nhiên không hiểu vì một lý do gì, HQ-4 lại được lệnh phải trở lại vùng hải chiến với tàu của Trung Cộng lúc buổi sáng! Tôi đoán lúc đó vào khoảng 1 giờ trưa.

Nghe tin này, một số anh em bị thương nặng tỏ vẻ xúc động. Một số anh em khác tuy bị thương nhưng còn khả năng tác chiến thì được lệnh sẵn sàng trở vào vị trí. Toán Biệt Hải lúc ấy được đặt dưới quyền của Hạm Trưởng, đưa bổ sung vào các chỗ khiếm khuyết trên tầu tùy theo khả năng. Phần tôi tuy bị thương nhưng vẫn được giao sử dụng một cây đại liên 50. Sau khi nhận lệnh, chiếc HQ-4 quay đầu trở lại theo hướng Ðông-Bắc, trực chỉ quần đảo Hoàng Sa để tái nhập cuộc. Tuy nhiên sau khoảng hơn một tiếng hải hành, HQ-4 lại được lệnh quay trở về Ðà Nẵng lần thứ nhì! Toán Biệt Hải chúng tôi nghe loáng thoáng lý do đang có máy bay MIG và tầu chiến của Trung Cộng từ Hải Nam bay qua trợ chiến quân đội của chúng trên quần đảo Hoàng Sa.

Mãi cho đến sau này, sau khi đã định cư tại Hoa Kỳ, chúng tôi mới biết được nội vụ của lý do khiến chiếc HQ-4 phải đột ngột quay trở lại Ðà Nẵng lần thứ nhì như sau: “Tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn (DAO) cho biết radar của Ðệ Thất Hạm Ðội ghi nhận một số phóng lôi hạm (guided missile frigate) và chiến đấu cơ MIG của Trung Cộng từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa. Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa sau đó yêu cầu Ðệ Thất Hạm Ðội trợ giúp, nhưng không thành công. Các chiến hạm của Việt Nam Cộng Hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa (Kiem Do and Julie Kane, Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer's War - Ðất Mẹ)”.

Khi HQ-4 đang trên đường xuôi Nam thì Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng từ trần. Một phần vì vết thương anh quá nặng, phần nữa vì trên tầu thiếu phương tiện và thuốc men cấp cứu nên anh đã vĩnh viễn ra đi, để lại người vợ cưới chưa được bao lâu và đứa con chưa tròn năm tuổi. Cuộc hải chiến hào hùng của các chiến sĩ Hải Quân, các toán Hải Kích Người Nhái và toán Biệt Hải thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải, Nha Kỹ Thuật tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974 đã nói lên ý chí và sự quyết tâm của người lính QLVNCH, quyết chiến đấu để giữ gìn lãnh hải do Tiền Nhân để lại, không bao giờ sợ hãi trước đoàn quân xâm lăng của Trung Cộng.

Phần II: Tường thuật của Biệt Hải Nguyễn Trâm

Buổi chiều ngày 18-1-1974, Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 do Hạm Trưởng Lê Văn Thự chở một toán Hải Kích, trong đó có một số Biệt Hải thuyên chuyển về đã có mặt trong vùng đảo Hoàng Sa, cùng phối hợp với HQ-4, HQ-5 và HQ-10 để thi hành nhiệm vụ bảo vệ các hải đảo. Ðêm đó, toán Hải Kích được sắp xếp nằm ngủ trong một góc phòng ăn của HQ-16. Hôm sau, vào lúc 4 giờ 30 sáng ngày 19-1-74, chúng tôi nghe nhiều tiếng chân thủy thủ trên tàu lần lượt bước vào phòng ăn. Tất cả đứng tập họp riêng tại một góc để nghe vị sĩ quan chỉ huy ân cần nhắc nhở anh em hiện diện trên tàu HQ-16: “Chúng ta phải quyết tâm chiến đấu nếu tình thế bắt buộc để bảo vệ lãnh hải của phần đất tổ quốc Việt Nam trước sự gây hấn của Hải quân Trung Cộng. Nếu chúng ta muốn được an bình trở về sum họp với gia đình thì mọi người phải hết sức bảo vệ con tàu bằng tất cả nhiệm vụ và tinh thần của mình.” Tiếng của người sĩ quan chỉ huy vừa chấm dứt, ai nấy đều hô to “quyết chiến!” Sau đó, mọi người được lệnh giải tán trở về nhiệm sở. Tuy chúng tôi đang nằm cách xa họ hai cái bàn ăn, nhưng vì đã nghe được từng cử chỉ, từng lời nói của người sĩ quan chỉ huy nên linh cảm được những sự chẳng lành, đang nhen nhúm xẩy ra trong giờ phút định mệnh sắp tới.

Sáng sớm tinh sương hôm đó, toán Hải Kích được lệnh vào vị trí tác chiến. Tất cả mọi người đi lên và chia nhau nằm vào hai phía trái-phải trên trần tầu. Ngoài vũ khí cá nhân, mỗi người còn mang thêm một số súng M-72 đặt sẵn bên cạnh. Phía đằng sau phòng lái cách chiếc HQ-16 chừng 800 thước hoặc xa hơn một tí, chúng tôi nhìn thấy chiếc HQ-10 rất rõ, đang cùng với HQ-16 hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp khi xảy ra hữu sự. Khoảng 6 giờ sáng, lợi dụng lúc mặt trời đang nhá nhem, một chiếc tầu Trung Cộng bất ngờ từ sau chạy tới, cố ý húc vào hông phải chiếc HQ-16 khá mạnh đến nỗi vị trí chỗ nằm của chúng tôi ở trên trần bị xê dịch. Mọi người nhìn xuống dưới tầu Trung Cộng thấy một viên sĩ quan đang đứng theo thế nghỉ phía ngoài mặt phòng lái, hai tay để chắp sau lưng, bên hông đeo một lưỡi kiếm lủng lẳng. Viên sĩ quan này cuối cùng bị ngã theo sức dội của thân tầu, và đồng thời chúng tôi nghe nhiều tiếng nói của Hải quân Trung Cộng từ dưới vọng lên nhưng không hiểu họ muốn nói gì? Sau đó, chiếc tầu của Trung cộng xả hết tốc độ chạy nhanh tới phía trước tìm cách chận đầu chiếc HQ-16 lại. Nhìn cử chỉ đầy hống hách và xấc xược của chiếc tàu Hải quân Trung Cộng vừa rồi, tôi thầm nghĩ giá các chiến đỉnh PTF của Lực Lượng Hải Tuần chở các toán Biệt Hải ra Bắc nay còn mới tương xứng với tốc độ các tàu này của bọn chúng.

Theo bài viết “Người Ra Biển Bắc” của Hạm Trưởng Trần Ðỗ Cẩm thuộc Lực Lượng Hải Tuần thì: “Khinh tốc đỉnh Nasty có vỏ bọc bằng ván ép nhiều lớp đặc biệt, trọng tấn 75 tấn, dài khoảng 80 bộ, rộng 24.7 bộ. Tầm nước 3.7 bộ phía trước, 6.10 bộ chỗ chân vịt sau lái, có thể chuyên chở 18 tấn hay 6,100 gallons dầu cặn. Tầm hoạt động lên đến 1,000 hải lý với tốc độ tiết kiệm. Máy tầu thuộc loại Napier & Deltic của Anh, 18 xy-lanh. Vận tốc đường trường khoảng 35 gút, vận tốc tác chiến tối đa có thể lên đến 50 gút khi tầu mang thêm nhiều nhiên liệu. Về vũ khí, Nasty được trang bị 1 súng cối 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên 50 trước mũi. Sân sau lái đặt khẩu đại bác 40 ly, hai bên hông ngang đài chỉ huy gắn đại bác 20 ly.”. Trong suốt thời gian hoạt động tại vùng duyên hải miền Bắc, các tầu của Hải Quân Bắc Việt ít khi nào dám xuất hiện đối đầu với các chiến đỉnh PTF Lực Lương Hải Tuần thuộc SPVDH/NKT của VNCH.

Gần 8 giờ sáng ngày 19-1-74, toán Hải Kích được lệnh chuẩn bị để đổ bộ vào đảo Quang Hòa (Duncan). Chúng tôi vừa sửa soạn xong một chiếc thuyền hobo thì được lệnh ngừng lại vì tin cho biết toán Hải Kích trên HQ-5 đổ bộ vô bờ đã có hai người bị tử thương gồm Trung Úy Ðơn ,Trưởng Toán và Hải Kích Ðỗ Văn Long. Trong thời gian này HQ-16 và tầu của Trung Cộng hai bên vẫn chạy kềm nhau. HQ-16 luôn bị các tầu của Trung Cộng tìm cách chận đầu ngăn cản. Lúc này, tất cả họng súng trên tàu của HQ-16 đều nhắm về hướng các tầu Trung Cộng. Trưa ngày 19-1-1974, lúc hơn 10 giờ sáng, tất cả được lệnh khai hỏa. Khẩu đại bác 125 ly ở đầu mũi chiếc HQ-16 nhắm bắn vào các tầu Trung Cộng. Cùng lúc đó, hướng trước mũi tầu HQ-10 và phía sau phòng lái HQ-16 bên phải đã thấy một tầu của Trung Cộng bị trúng đạn. Chiếc tầu này hiện đang quay lòng vòng trên biển. Ðồng thời, khói trên đài chỉ huy HQ-10 bắt đầu bốc lên và tầu đã ngưng chạy. Một lúc sau, trên mặt biển phía hông phải chiếc HQ-10, gần vị trí của tầu Trung Cộng bị bắn có nhiều cụm khói mầu vàng, đỏ, xanh từ mặt biển bốc lên kèm theo với tiếng người la ơi ới lẫn trong tiếng đạn của hai bên bắn nhau nổ chát chúa. Trên không, từng lằn đạn chíu chít qua lại đã bít kín một vùng biển, thỉnh thoảng phát ra nhiều tiếng hú như để cổ võ người lính Việt Nam Cộng Hòa trong giờ phút lịch sử hãy chiến đấu anh hùng để giữ gìn lãnh hải của tổ tiên mà Hải Quân Trung Cộng đang manh nha cướp đoạt.

Tất cả súng cá nhân của toán Hải Kích mang theo hiện không sử dụng được vì mục tiêu tầu địch quá xa. Trái lại, những khẩu đại pháo và các khẩu đại liên 50 lúc nầy mới thực sự có khả năng quyết định chiến trường. Không lâu sau, bên cạnh tôi đã có hai Hải Kích bị thương, trong đó có một người bị khá nặng. Chúng tôi chia nhau dìu các thương binh từ trên trần tàu đi xuống về phía sau lái tránh đạn. Ở đó, hiện đã có một số thủy thủ bị thương, vừa nằm vừa ngồi, tất cả đã được băng bó. Ðúng vào lúc này, tôi thấy chiếc HQ-16 nghiêng hẳn về một phía và máy bên trái đã bị hư, không còn chạy được nữa! Bình thường tầu đã chạy chậm, bây giờ hư thêm một máy nên càng chạy chậm hơn. Cùng lúc đó, dưới hầm máy tiếng viên Sĩ Quan Phòng Tai hối thúc anh em đặt máy bơm nước vào các vị trí để hút nước ra ngoài, và đồng thời lấy một số nệm ngủ đem bít kín vào các lỗ đạn bắn xuyên thủng vào hông tàu. Lúc này, thấy nước đã chẩy thấm ướt dưới thềm phòng ăn. Không bao lâu, tiếng chuyên viên từ dưới hầm hét lên ra vẻ vui mừng, báo cáo đã khống chế được các lỗ thủng không cho nước vào, và đồng thời các máy bơm nước cũng đang hoạt động tốt. Nghe tin này, ai nấy đều hết sức phấn khởi. Tất cả sự vui mừng đang hiện rõ trên từng khuôn mặt của các thương bệnh binh.

Cuối cùng, chiếc HQ-16 tuy còn một máy nhưng vẫn ung dung thoát ra khỏi vùng giao tranh. Tuy nhiên, chiều hôm đó anh em chúng tôi rất đau lòng khi phải bỏ lại chiếc HQ-10 một mình trơ trọi trong vùng đảo Quang Hòa, Hoàng Sa ngày 19-1-74. Sau một đêm lênh đênh trên biển, sáng ngày hôm sau, Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 đã cặp bến an toàn tại bến tầu của Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải, Tiên Sa-Ðà Nẵng.

Nam Quốc sơn hà Nam Ðế cư,

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư,

Nhử hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư.

Nghĩa là:

Sông núi nước Nam vua Nam ở,

Rành rành định phận tại sách trời,

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

(Tiền nhân Lý Thường Kiệt)