Monday, July 13, 2009

Cong Tac SPVDH


VIII. Một Số Hoạt Động

Trong khoảng thời gian trên dưới 10 năm hoạt động, các ghe Nautilus và chiến đĩnh LLHT cũng như toán Biệt Hải đã thi hành hàng ngàn chuyến công tác đủ loại. Sau đây là những công tác đáng nhớ.

1. Công Tác Của Ghe Nautilus

Tuy các ghe Nautilus hoạt động bắt đầu hoạt động từ năm 1956, nhưng những chuyến công tác đầu tiên chỉ dể tiếp tế cho những toán nằm vùng ngoài Bắc Việt và rất bất thường, có khi mỗi năm chỉ xảy ra một, vài lần. Sau này, vào khoảng các năm 1962, 1963, những chuyến công tác Nautilus trở nên thường xuyên hơn và có mục đích tích cực hơn. Sau đây là một số hoạt độngtiêu biểu của Toán Công Tác Đường Biển trong thời gian này:

- Chuyến Công Tác Nautilus I ngày 12/1/62

Ngày 12 tháng 2 năm 1962, vào khoảng 5 giờ sáng, ghe Nautilus I rời Đà Nẵng lên đường ra miền Bắc để thực hiện công tác liên lạc và tiếp tế cho các công tác viên nằm vùng. Sau hai ngày hải hành trong vịnh Bắc Việt không có gì trở ngại, Nautilus I tới vùng điểm hẹn Hòn Gai. Trước đó ít lâu, điệp viên Ares đã gửi điện văn yêu cầu tiếp tế nhiều nhu yếu phẩm, trong đó có cả máy truyền tin. Ngoại trừ thuyền trưởng, đa số thủy thủ đoàn của Nautilus 1 còn rất trẻ đều không biết rõ mục tiêu của chuyến công tác. Trước đó không lâu, dưới sự điều động của cơ quan xâm nhập đường biển, Nautilus I đã đổ một người tên Quang lên vùng biển Hà Tĩnh gần Đèo Ngang an toàn. Thủy thủ đoàn cũng đã nhiều lần lên bờ sống lẫn lộn với dân đánh cá địa phương để thu thập tin tức.

Khi tới Hòn Gai, Nautilus I neo ở gần một hòn đảo nhỏ và giả dạng đang đánh cá để chờ trời tối. Đến tối, Nautilus theo mật hiệu của Ares vào đến điểm trong bờ hẹn thì bị phục kích. Chiếc ghe và toàn thể thủy thủ đoàn bị rơi vào tay địch. Điệp viên Ares cũng không thấy tăm tích!

- Công Tác Nautilus II Ngày 28-6-62

Ngày 28 tháng 6 năm 1962, thủy thủ đoàn Nautilus II rời Đà Nẵng lên đường vượt vĩ tuyến 17 trong một công tác đặc biệt: đó là thả bốn người nhái tại cửa sông Gianh để đặt mìn phá hoại những chiếc tầu Swatow của Việt Cộng tại căn cứ Hải Quân Quảng Khê gần đó. Bốn người này là các anh Lê Văn Kinh, Nguyễn Hữu Thảo, Nguyễn Văn Tâm và Lê Văn Chuyên. Họ thuộc toán người nhái đầu tiên của Hải Quân VNCH gồm 18 người được gửi đi thụ huấn tại Đài Loan vào tháng 8 năm 1960.

Tới địa điểm hoạt động, những người nhái thuộc toán phá hoại xuống nước và chuẩn bị đặt mìn. Nhưng rủi ro không hiểu vì lý do gì, một trái mìn bị nổ trước khi tới mục tiêu, khiến một người nhái bị tử thương tại chỗ. Vì vậy, lực lương duyên phòng VC báo động và đuổi bắt. Chiếc thuyền Nautilus xả hết tốc lực chạy về vĩ tuyến 17 nhưng bị các tầu tuần VC có tốc lực nhanh hơn đuổi kịp và đánh chìm gần vĩ tuyến 17. Nhân viên CIA ở Đà Nẵng nghe được liên lạc âm thoại của các tầu CS nhưng không làm gì được để tiếp cứu Nautilus II.

Kết quả có hai người nhái bị bắt là anh trưởng toán Lê Văn Kinh và Nguyễn Văn Tâm. Trongsố thủy thủ đoàn Nautilus II, chỉ có một người thoát nạn nhờ núp dưới lá buồm của chiếc thuyền bị chìm, và được một lực lượng xuất phát từ Đà Nẵng cứu thoát trên biển.

- Công Tác Vào Tháng 7 năm 1962

Trong chuyến công tác này, một điệp viên tên Nguyễn Châu Thanh đổ bộ thành công tại vùng Hà Tĩnh. Theo kế hoạch, thủy thủ đoàn Nautilus III đảm nhiệm công tác này, nhưng đến phút chót, công tác được giao cho một chiếc thuyền khác.

- Công Tác Nautilus VII

Vào tháng 7 năm 1963, toán Dragon gồm có 6 người Nùng do Mộc A Tài chỉ huy đổ bộ lên vùng Móng Cái, sát biên giới Việt Hoa với nhiệm vụ phá hủy đài radar duyên hải tại địa phương. Ngoài ra, toán Dragon cũng được lệnh hoạt động vô hạn định trong khu vực quen thuộc nhiều người Nùng này và liên lạc với những người Nùng khác là lính cũ của Đại Tá Woong A Sáng sư đoàn 22 BB để lại nằm vùng tại miền Bắc trong cuộc di cư vào Nam năm 1954. Sở Địa Hình đã liên lạc với Đại Tá Sáng để biết về tung tích của những ngưới lính cũ nằm cùng này. Nếu gặp được nắm được, toán Dragon sẽ dùng họ để chỉ điểm và cộng tác.

Chiếc ghe Nautilus 7 có nhiệm vụ chở Team Dragon tới điểm đổ bộ. Thủy Thủ Đoàn Nautilus cũng được dặn dò phải cẩn thận đi theo một hải trình đã vạch sẵn để tránh các đài radar ở đảo Hải Nam có thể phát hiện họ khi xâm nhập hải phận miền Bắc.

Chẳng may, khi Nautilus 7 tới điểm đổ bộ thì bị phát hiện, lúc đó toán đổ bộ đã lên bờ. Nautilus 7 sau này về được đến Đà Nẵng, nhưng một số thủy thủ và toán đổ bộ bị bắt. Một trong số người bị bắt cho biết như sau:

"Những chuyến xâm nhập bằng đường biển đều rất thành công. Bằng cớ là tôi đã hoàn tất 11 chuyến công tác trước khi bị bắt. Công tác của chúng tôi chia làm 3 loại: thám sát để thu thập tin tức tình báo, đổ bộ biệt kích và phá hoại. Chúng tôi có cả thảy 7 chiếc ghe, thủy thủ đoàn luôn luôn được thay đổi. Thí dụ như tôi lúc đầu thuộc toán Nautilus 2, sau đó qua Nautilus 4 và cuối cùng tới Nautilus 7 khi bị bắt. Nautilus 4 đã xâm nhập Hải Phòng 2 lần nhưng đều trở về an toàn. Chúng tôi đã nhiều lần hoàn tất công tác tại các vùng thật xa như Móng Cái gần biên giới Hoa-Việt và vùng Đèo Ngang thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Theo tôi biết, Nautilus II là chiếc ghe độc nhất bị mất trong chuyến công tác chở người nhái đặt mìn tại Quảng Khê vào tháng 6/62".

2. Công Tác Của PTF

Không có tài liệu nào cho biết về hoạt động của các tầu Swift và PTF trước năm 64 khi còn do CIA điều động với những ngưới ngoại quốc như Đức, Na Uy hay Trung Hoa làm thuyền trưởng, nhưng từ năm 64 là lúc SPVZH được thành lập và các chiến đĩnh do HQVNCH điều động thì có rất nhiều công tác thành công. Cũng cần nói thêm, những công tác của MAGSOC đều có tính cách chiến lược hơn là chiến thuật, vì vậy không hẳn đặt nặng vào vấn đề phá hoại mục tiêu hay giết được nhiều địch mà nhằm vào việc thâu thập tin tức tình báo cũng như khuấy rối hậu tuyến địch hoặc chiến tranh tâm lý.

Trong suốt thời gian hoạt động khoảng 8 năm, các PTF thuộc LLHT đã thực hiện trên dưới 1,000 chuyến công tác xâm nhập hải phận Bắc Việt. Khoảng từ năm 1965 đến năm 1970 có nhiều công tác nhất. Đặc biệt trong thời điểm phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt, có những thủy thủ đoàn đi 5, 6 chuyến công tác mỗi tháng.

LLHT có tới 12 thủy thủ đoàn, gọi là Crew 1 đến Crew 12 (C1 - C12). Cấp số mỗi crew là 19 người. Về PTF cũng có 12 chiếc đặt tên từ Boat 1 đến Boat 12 (B1 - B12). Trên nguyên tắc, mỗi một thủy thủ đoàn chịu trách nhiệm một PTF, thí dụ C1 được giao cho B1, C2 lãnh B2 v.v... Vì vậy, thủy thủ đoàn C1 cũng thường được gọi là B1 v.v... PTF thuộc LLHT không bao giờ hoạt động đơn độc phía trên vĩ tuyến 17 Bắc. Mỗi chuyến công tác gồm từ 2 tới 4 PTF, tùy theo mức độ quan trọng hoặc vùng hoạt động xa hay gần. Trung bình, mỗi chuyến công tác thường có 3 PTF. Tuy mỗi thủy thủ đoàn được giao cho một PTF, nhưng khi đi công tác, bao giờ những chiếc tầu tốt nhất cũng được ưu tiên lựa chọn, vì vậy, thủy thủ đoàn này lấy chiếc tầu kia đi công tác là chuyện rất thông thường.

Sau đây chỉ là một số hoạt động tiêu biểu trong tháng 6 năm 1964.

- Ngày 12, hai toán chiến đĩnh đổ toán đổ bộ lên hai mục tiêu khác nhau tại vùng biển Bắc Việt. Một toán tại vùng Cửa Ron thuộc tỉnh Hà Tĩnh và một toán xa hơn về phía Bắc thuộc tỉnh Thanh Hóa. Toán đổ bộ tại cửa Ron mang theo súng 57 ly không giật đã bắn tan một đồn binh của Bắc Việt tại Hải Khẩu. Toán đổ bộ tại Thanh Hóa đặt mìn phá nổ cầu sông Hàng. Tất cả toán đổ bộ gồm 26 người đều trở về chiến đĩnh vô sự.

- Trong đêm 26 rạng ngày 27, một toán chuyên viên đặt chất nổ gồm 7 người hợp với toán yểm trợ 24 người đã phá nổ một cây cầu trên Quốc Lộ 1 gần Thanh Hóa, hạ sát 2 lính gác cầu và 4 lính Bắc Việt mà không bị thiệt hại.

- Đêm 30 rạng 1 tháng 7, một toán đổ bộ gồm khoảng 30 người đã dùng súng 57 ly không giật bắn sập nhà máy nước tại cửa sông Kiên gần Đồng Hới. Vào khoảng quá nửa đêm, hai PTF 5 và 6 đổ bộ người bằng bè cao su. Toán đổ bộ hoàn tất công tác nhưng đụng độ nặng với lính Bắc Việt. Hai PTF tiến lại gần bờ bắn yểm trợ bằng súng 40 và 20 ly để đưa toán đổ bộ về tầu. Kết quả toán đổ bộ bị thiệt mất 2 người nhưng cũng bắt sống được 2 địch quân. Sau này, Bắc Việt cho biết bắt sống được một Biệt Kích Quân và anh này cho biết thuộc toán đổ bộ đã đánh sập cầu sông Hàng tại Thanh Hóa trước đây. Anh cũng cho biết những Biệt Kích Quân đều được huấn luyện tinh thục và rất quen thuộc với kỹ thuật đổ bộ, có thể đánh phá các mục tiêu trên bộ rồi trở về chiến đĩnh không mấy khó khăn. Anh cũng cho biết các Biệt Kích Quân thích đổ bộ bằng đường biển hơn lối thả dù bằng máy bay vì an toàn và được yểm trợ hữu hiệu hơn.

3. Công Tác Tâm Lý Chiến

Ngoài những công tác đổ toán với mục tiêu phá hoại hay bắt những cán bộ hay lính Bắc Việt để khai thác tin tức tình báo. Các PTF còn thực hiện nhiều công tác khác ngoài biển, không cần dùng tới toán đổ bộ như: xét những ghe đánh cá để thu thập tài liệu hoặc bắt một vài dân đánh cá để khai thác tin tức, bắn phá các mục tiêu trên bộ, bắn truyền đơn vào vùng duyên hải đông dân cư v.v...

Các công tác bắn truyền đơn thường được thực hiện tại vùng bờ biển đông dân cư, khoảng từ vĩ tuyến 18 Bắc trở xuống. Các truyền đơn đã được nạp sẵn vào đầu đạn, 81 ly. Khi tới vùng hoạt động, các PTF chạy rất gần bờ, khoảng từ 1,500 thuớc tớ 2,000 ngàn thước rồi bắn những đầu đạn có truyền đơn vào các xóm làng ven biển. Đầu đạn sẽ nổ trên không như đạn trái sáng và tuyền đơn tung ra như được rải từ trên không. Đôi khi, các PTF cũng thả các máy thâu thanh được bọc kỹ trong túi ny-lông không thấm nước tại các làng dọc theo duyên hải để dân chúng có thể nghe các đài phát thanh miền Nam như Tiếng Nói Tự Do, Mẹ Việt Nam, Gươm Thiêng Ái Quốc v.v...

Công tác bắt dân đánh cá để thực hiện mục tiêu tuyên truyền được thực hiện lần đầu vào ngày 27 tháng 5 năm 1964. Trong chuyến công tác này gồm có một PTF và một Swift bắt một ghe đánh cá tại vùng biển Đồng Hới. Sáu ngư phủ cùng với chiếc ghe được đưa về Cù Lao Chàm gần Đà Nẵng. Tại đây, các ngư phủ được đối xử và cho ăn uống tử tế trong suốt thời gian lưu trú để tuyên truyền. Tới ngày 2 tháng 6, các ngư phủ này được trả về vùng biển trước đây đã bị bắt cùng với thuyền dánh cá của họ và một số quà như máy thu thanh mà người miền Bắc gọi là "đài", vải vóc, thực phẩm, đồ dùng bằng nhựa v.v...

Ngày 7 tháng 7, các chiến đĩnh bắt thêm 3 ghe và ngày 20 tháng 7 thêm 2 ghe khác. Sau này, các Swift không còn đảm nhận công tác phía Bắc của vĩ tuyến 17 nên việc xét và bắt các ngư phủ đều do các PTF thực hiện. Có lẽ vì các PTF có vận tốc nhanh và cũng cao hơn Swift nên việc kéo ghe đánh cá không có người lái về Cù Lao Chàm thường khiến ghe bị chìm nên sau này chỉ chỉ bắt người mà không kéo ghe. Khi thả các ngư phủ, các chiến đĩnh mang theo các thuyền thúng và thả họ tại vùng đã bị bắt trước đây.

Sau này, có tài liệu của Hoa Kỳ nói rằng sau khi bắt ngư phủ, các PTF không kéo theo ghe đánh cá như trước mà để lại đặt chất nổ rồi thả trôi để làm bẫy. Điều này hoàn toàn vô căn cứ. Việc không kéo theo ghe đánh cá thật ra vì lý do thực tế nhiều hơn vì lý do phá hoại. Thông thường ngư dân ngoài Bắc sống dưới chế độ Cộng Sản đều rất nghèo đói, nên ghe đánh cá của họ rất mong manh và sơ sài, chỉ có thể hành nghề tương đối gần bờ trong nhưng ngày biển êm. Vì vậy, ngay cả với Swift là chiến đĩnh loại nhỏ cũng phải kéo rất cẩn thận với vận tóc thật chậm, khoảng dưới 10 hải lý một giờ để tránh ghe bị chìm hoặc bể. Đó là vùng gần vĩ tuyến 17 như Đồng Hới, Quảng Khê dân còn có ghe tuy sơ sài để đánh cá. Xa hơn về phía Bắc như tại vùng Thanh Hóa, Nghệ An, các ngư phủ nghèo đến độ không có còn có ghe mà họ phải dùng "mảng" là một bè gồm nhiều thân cây tre cột lại với nhau bằng "lạt" tức là giây làm bằng tre chẻ nhỏ. Dĩ nhiên, những "mảng" này không có máy mà chạy bằng buồm và chèo. Buồm cũng không làm bằng vải mà làm bằng lá gồi hoặc cói đan lại như chiếc chiếu. Cột buồm cũng làm bằng thân một cây tre lớn. Khi hành nghề trên các "mảng" này, dân đánh cá lúc nào cũng bị ướt vì mảng tuy nổi nhưng luôn luôn sâm sấp nước ngập tới cổ chân! Vì vậy, dù có muốn kéo những "mảng" hay "bè" tre này cũng không được. Về y phục, những người chủ ghe khá lắm mới có được quần áo vá chằng chịt không biết mấy lớp. Đa số người trên mảng chỉ trùm một chiếc "áo tơi" cũng làm làm bằng lá gồi cột lại. Dụng cụ đánh cá của họ là những sợi dây câu cuốn vào ống tre chứ không có lưới.

Chúng tôi còn nhớ một lần xét ghe ngoài khơi cửa Lạch Trường tức cửa bể Sầm Sơn gần Thanh Hóa. Hôm đó, vào khoảng tháng 12, trời mưa phùn với gió Bấc thổi khá lạnh. Khi chiến đĩnh lại gần thấy chiếc mảng trên có 5, 6 ngư phủ đầu đội nón lá, tay kéo chặt chiếc áo tơi lá gồi, ngồi xổm co ro vào một góc như để tránh gió và che chở lẫn cho nhau. Thấy có vẻ khả nghi, nhân viên xét ghe trên chiến đĩnh dùng loa phóng thanh cầm tay (megaphone) ra lệnh cho những người dưới mảng "đứng dậy, dơ tay lên". Các ngư phủ trên mảng nhìn nhau có vẻ bối rối, nhưng khi thấy toán xét ghe trên tầu chĩa súng xuống, họ phải đứng lên và bỏ tay đang giữ chiếc áo tơi để đưa lên khỏi đầu. Lập tức, những chiếc áo tơi lá không còn bị cầm giữ nữa tuột khỏi thân người, rơi xuống mảng. Tất cả mọi người trên chiến đĩnh đều vô cùng ngạc nhiên khi thấy các ngư phủ đều trần truồng, bên trong không mặc quần áo gì cả! Khi đưa họ lên tầu, cho ăn uống no nê, hỏi ra mới biết theo "chỉ số", mỗi người dân chỉ được mua 2 thước vải quốc doanh một năm, mua vải chợ đen thì không có tiền. Vì vậy khi đi biển, người nào có áo vá chằng vá đụp đã là loại sang, còn đa số chỉ đánh chiếc áo tơi lá gồi để che mưa nắng, còn quần áo để đành cho các dịp trọng đại khác.

Về công tác tâm lý chiến, một hạm trưởng thâm niên thuộc LLHT kể lại như sau:

" Trong năm 1967, chúng tôi thi hành một kế hoạch tâm lý chiến đặc biệt. Trong gần ba tháng, chúng tôi bắt hơn 300 ngư dân từ Đồng Hới đến Thanh Hóa, cứ mỗi xã bắt hai người. Sau đó đưa họ về Cù lao Chàm, nuôi họ mỗi ngày nửa con gà. Sau ba tháng, anh nào anh nấy mập ú, da dẻ hồng hào. Chúng tôi thả họ về nguyên quán sau đó để xem phản ứng của dân chúng cũng như chính quyền miền Bắc như thế nào. Quả như chúng tôi nghĩ, trong sáu tháng sau, chúng tôi cố gắng bắt lại vài ngư phủ này để khai thác, nhưng tìm mãi cũng chẳng được người nào. Đến gần chín tháng mới bắt được một người, anh ta than thở: "Mấy ông hại tui. Khi mấy ông thả tui về, chính quyền địa phương thấy tui mập quá, đem nhốt cải tạo tư tưởng, đến bây giờ mới cho về."

Thiet Hai SPVDH


XI-. Thiệt Hại

Trong suốt khoảng 8 năm hoạt động, thiệt hại của LLHT do địch gây ra coi như không đáng kể.

Về mặt chiến đĩnh, không có chiếc nào bị chìm vì trúng đạn địch quân, chỉ có một số bị hư hại nhẹ. Tuy nhiên, có một số bị mắc cạn. Điều này cũng dễ hiểu vì đa số những chuyến công tác đều được thực hiện vào ban đêm, khá gần bờ trong một vùng duyên hải không mấy quen thuộc. Tất cả những PTF mắc cạn sau đó đều bị phi cơ Hoa Kỳ dội bom phá hủy để khỏi rơi vào tay địch quân. Cũng có trường hợp một PTF bị chìm vì trúng hỏa tiễn của phi cơ Hoa Kỳ bắn lầm.

Về phương diện nhân sự, thiệt hại do địch quân gây ra cũng rất nhẹ, chỉ có chừng vài chục người thương vong trong số hàng ngàn chuyến công tác. Thiệt hại nhân mạng nặng nhất xảy ra khi một PTF bị tầu bạn bắn lầm trong lúc tác chiến khiến 2 sĩ quan tử thương.

Sở Phòng Vệ Duyên Hải


VII. Sở Phòng Vệ Duyên Hải

Về phương diện chỉ huy, chính phủ Hoa Kỳ (Hoa Thịnh Đốn) hoàn toàn đảm nhiệm phần kiểm soát và thiết kế hành quân, MACSOC và Nha Kỹ Thuật tại Việt Nam đảm nhiệm việc thi hành. Cả MAGSOC lẫn Nha Kỹ Thuật đều hầu như không có tiếng nói hay ảnh hưởng nào về mặt đề nghị, cho phép và sắp đặt thời khóa biểu cho các cuộc hành quân.

Về phương diện tổ chức, phía Hoa Kỳ, dưới MACSOG có Phái Bộ Cố Vấn Hải Quân (Naval Advisory Detachment - NAD) hay còn được gọi là Toán Hành Quân Đường Biển (Maritime Operation Group - MAROP) chuyên lo về các cuộc hành quân biệt hải có nhiệm vụ thả biệt kích, bắn phá các tầu bè, cơ sở quân sự cũng như mở các cuộc hành quân thăm dò dọc duyên hải Miền Bắc. Về phía Việt Nam, trực thuộc Nha Kỹ Thuật có Sở Phòng Vệ Duyên Hải (Coastal Security Service - CSS) làm việc hàng ngang với NAD. Hai cơ quan này thường được gọi chung là NAD/CSS đều đặt trụ sở tại tòa nhà Bạch Tượng (White Elephant) Đà Nẵng đễ dễ bề phối hợp các hoạt động. Các giới chức chỉ huy của SPVZH phối hợp khá chặt chẽ với NAD trong việc điều động nhân viên công tác, thuyết trình trước và sau mỗi cuộc hành quân v.v... Ngoài cơ quan NAD, SPVZH cũng làm việc rất chặt chẽ với toán huấn luyện và yểm trợ MST.

Trước đây, khi toán xâm nhập đường biển còn hoạt động dưới quyền điều động trực tiếp của CIA, tuy có một số nhỏ người nhái HQVN, nhưng nhân viên của những ghe Nautilus đều là dân sự. Khi kế hoạch Switchback chuyển giao quyền kiểm soát các cuộc hành quân đặc biệt từ CIA sang quân đội Hoa Kỳ, ghe Nautilus dần dần được thay thế bằng những chiến đĩnh tối tân hơn, LLHT cũng được thành lập gồm những sĩ quan và đoàn viên thuộc Hải Quân VNCH đặc biệt tuyển chọn để làm thủy thủ đoàn. LLHT đặt dưới quyền điều động của Sở Phòng Vệ Duyên Hải (SPVZH) trực thuộc Nha Kỹ Thuật.

Đa số nhân viên SPVZH là quân nhân, trong số này phần lớn là Hải Quân, đôi khi có một số rất nhỏ thuộc Bộ Binh. SPVZH làm việc ngang hàng với cơ quan NAD của Hoa Kỳ trong việc chỉ định các toán công tác, huấn luyện và bảo trì chiến đĩnh. Về mặt hành chánh, các quân nhân Hải Quân thuộc SPVZH được coi như biệt phái từ Hải Quân. Chỉ Huy Trưởng SPVZH là một sĩ quan cao cấp Hải Quân. Các vị Chỉ Huy Trưởng SPVZH đều là những sĩ quan thâm niên, nhiều kinh nghiệm; sau này có tới bốn cựu Chỉ Huy Trưởng được thăng đến cấp Phó Đề Đốc.

Ngoài một số cơ cấu hành chánh, SPVZH có hai đơn vị trực thuộc chính, đó là Lực Lượng Hải Tuần (LLHT) và Lực Lượng Biệt Hải, đôi khi còn gọi tắt là Biệt Hải.

1. Lực Lượng Hải Tuần

LLHT là cơ cấu đông nhân viên nhất, có thể coi là thành phần nồng cốt của SPVZH, nên đôi khi có một số người, kể cả những người trong Hải Quân chỉ biết đến LLHT, ít khi nghe nói tới SPVZH. Thực sự, LLHT chỉ là một đơn vị trực thuộc SPVZH cũng như Biệt Hải. Để hiểu rõ thêm, cần thấu triệt về nhiệm vụ, doanh trại, nhân viên, trang bị và những hoạt động của LLHT.

A . Nhiệm Vụ

Nhiệm vụ chính của LLHT là thi hành những công tác hành quân đặc biệt bằng đường biển trong vùng lãnh hải Bắc Việt từ vĩ tuyến 17 Bắc trở lên. Về phương diện này, có thể coi LLHT tương tự như Phi Đoàn 219 của KQVN chuyên thả các toán xâm nhập bằng trực thăng. Nhưng ngoài nhiệm vụ thả và vớt các toán Biệt Hải tại vùng duyên hải Bắc Việt, các chiến đĩnh thuộc LLHT còn thực hiện nhiều công tác riêng biệt khác như pháo kích, chận bắt tầu bè, chiến tranh tâm lý v.v... sẽ đề cập tới ở phần sau.

B. Doanh Trại

Doanh trại LLHT nằm ngay dưới chân núi Khỉ (Monkey Mountain) thuộc bán đảo Sơn Chà, Đà Nẵng, cạnh khu quân cảng Deep Water Pier, nơi các tầu chở hàng lớn của Hoa Kỳ như SEALAND cập để bốc rỡ hàng hoặc các tầu đổ bộ thuộc Hải Quân Hoa Kỳ ủi bãi. Doanh trại này cách Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải không xa. Từ Đà Nẵng đi vào, phải đi qua trạm kiểm soát tại Cầu Trắng, thấy bãi ủi Deep Water Pier ở bên trái rồi tới trại LLHT ở bên phải. Xa hơn nữa là các cơ sở thuộc BTL/HQ/V1DH.

Trại gồm hai dãy nhà một tầng, mái lợp fibro-xi măng nằm song song, dãy nhà trên cao gần chân núi dành cho sĩ quan và dãy nhà phía dưới gần đường lộ dành cho thủy thủ đoàn. Khu nhà sĩ quan được chia ra thành nhiều phòng nhỏ, mỗi phòng dành cho 2 sĩ quan. Cứ hai phòng có chung một nhà tắm. Khu đoàn viên gồm những nhà dài, không chia thành phòng. Thủy thủ đoàn của mỗi chiến đĩnh chiếm một nhà làm phòng ngủ.

Trong doanh trại, ngoài các phòng ngủ, còn có các cơ sở khác như câu lạc bộ, nhà kho v.v...

Cầu tầu PTF và các công xưởng sửa chữa cũng như bảo trì của MST nằm gần Deep Water Pier, đối diện với khu doanh trại qua con đường nhỏ.

C. Trang Bị

Kể từ khi Toán Xâm Nhập Đường Biển mới thành hình vào năm 1956 cho tới lúc SPVZH chính thức thành lập vào đầu năm 1964, các phương tiện chuyên chở thay đổi tùy theo thời gian và nhu cầu công tác. Mới đầu, toán xâm nhập dùng ghe loại đánh cá, sau đó đến các loại tầu bè tối tân hơn như duyên tốc đĩnh PCF và cuối cùng là loại khinh tốc đĩnh PTF.

- Ghe Nautilus

Như chúng ta đã biết, thoạt đầu khi Lực Lượng Xâm Nhập Đường Biển được thành lập và do CIA chỉ huy, phương tiện hoạt động duy nhất là các ghe Nautilus. Đây là các ghe gỗ khá lớn dài chừng 30 thước, có mui, trông giống những ghe đánh đánh cá xa bờ ở vịnh Bắc Việt. Ghe chạy bằng buồm nhưng có gắn máy có vận tốc dưới 10 gút (hải lý/giờ). Võ khí trang bị gồm có đại liên giấu trong khoang ghe và vũ khí cá nhân của thủy thủ đoàn.

Cho tới giữa năm 1963, tại Đà Nẵng có 7 ghe đặt tên Nautilus 1 tới 7 chuyên dùng để xâm nhập hải phận miền Bắc. Lúc đó thành phần này đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Ngô Thế Linh, trực thuộc LLĐB của Đại Tá Lê Quang Tung. Thủy thủ đoàn của những chiếc ghe Nautilus phần đông là dân sự gốc Nghệ An, Hà Tĩnh di cư hay sắc tộc Nùng sinh trưởng tại miền Bắc. Một số sĩ quan Hoa Kỳ và Việt Nam huấn luyện thủy thủ đoàn và các toán đổ bộ. Thủy thủ đoàn của mỗi ghe được thay đổi và bổ xung tùy theo nhu cầu công tác.

Vào các năm 1962-63, những ghe Nautilus xâm nhập miền Bắc nhiều lần để tiếp tế, đổ biệt kích và phá hoại thành công vì có thể dễ dàng trà trộn với ghe ngư phủ địa phương, dù vận tốc ghe này rất chậm, phải mất khoảng 24 giờ mới từ căn cứ xuất phát Đà Nẵng tới được mục tiêu Quảng Khê nằm dưới vĩ tuyến 18 Bắc. Sau này, vì bị phản bội cũng như địch biết được đường giây xâm nhập nên ghe Nautilus không còn hữu dụng. Đặc biệt trong chuyến công tác đánh phá căn cứ hải quân Quảng Khê của VC tại cửa sông Gianh vào ngày 28 tháng 6 năm 1962, vì hỏa lực yếu và vận tốc chậm nên ghe Nautilus II bị tầu VC đuổi kịp và đánh chìm. Từ đó CIA thay thế các ghe Nautilus bằng các duyên tốc đĩnh (PCF - Patrol Craft Fast) còn gọi là "Swift" nhanh hơn và hỏa lực mạnh hơn.

- Duyên Tốc Đĩnh PCF (Swift)

Vì các ghe Nautilus đã bị lỗi thời không còn thích hợp để xử dụng trong các công tác xâm nhập miền Bắc nên vào giữa năm 1963, ba duyên tốc đĩnh đĩnh mới loại PCF (Patrol Craft Fast) còn được gọi là Swift được dùng để thay thế. Đây là loại duyên tốc đĩnh tương đối nhỏ, tầm hoạt động chỉ lên đến Đồng Hới. Sau này, trong chương trình Việt Hóa chiến tranh, HQVNCH được trang bị rất nhiều loại duyên tốc đĩnh này để thành lập những Hải Đội Duyên Phòng.

Swift là loại tuần duyên đĩnh mũi ngắn, sườn nhôm, dài chừng 50 bộ do hãng đóng tầu Seward Seacraft ở Burwick, Louisiana chế tạo. Tầu trọng tải 19 tấn, tầm nước 3.5 bộ, gắn 2 máy diesel và có vận tốc tối đa chừng 28 gút. Vũ khí trang bị gồm có một đại liên 50 (12 ly7) gắn trên nóc phòng lái; sân sau có một súng cối 81 ly trực xạ trên gắn đại liên 50. Thủy thủ đoàn gồm có 5 người.

So với loại ghe Nautilus, duyên tốc đĩnh Swift tuy nhanh và trang bị hỏa lực khá mạnh nhưng tầm hoạt động tương đối ngắn, chỉ lên đến Đồng Hới. Tuy vậy, Swift vẫn không phải là đối thủ của các tầu tuần duyên loại P-4 có vận tốc nhanh hơn và Swatow trang bị đại bác 37 ly của Bắc Việt. Do đó, vì nhu cầu công tác đòi hỏi, vào khoảng đầu năm 1964, SPVZH được trang bị các chiến đĩnh loại Khinh Tốc Đĩnh (PTF - Patrol Torpedo Fast) lớn hơn, tầm hoạt động xa hơn, có vận tốc cao và hỏa lực mạnh hơn. Việc xử dụng PTF và người nhái tại Việt Nam đã được Khối Hành Quân Đặc Biệt của Hoa Kỳ chính thức đề nghị trong văn kiện đề ngày 27 tháng 9 năm 1962.

- Khinh Tốc Đĩnh PTF

Tổng cộng có ba loại PTF được dùng ở Việt Nam: PTF cũ thời đệ nhị thế chiến, PTF loại "Nasty" do Na Uy chế tạo và PTF loại "Osprey" do Hoa Kỳ đóng. Điểm đặc biệt là tất cả các ống phóng ngư lôi đều được tháo gỡ vì đối thủ Bắc Việt chỉ có các loại tầu nhỏ, không phải là mục tiêu của loại vũ khí này. Súng ống trang bị trên các PTF cũng được biến cải để phù hợp với nhiệm vụ trao phó.

Các PTF được đặt dưới quyền điều động của MST, vào tháng 3/64 do Đại Úy Burton Knight chỉ huy. MST trực thuộc MACSOG tại Sài Gòn. Về hệ thống chỉ huy, trên MACSOG là SACSA (Special Assistant for Counterinsurgency and Special Activities) thuộc Ngũ Giác Đài và Hội Đồng 303 (Committee 303) thuộc Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council - NSA). Tuy nhiên, những nhân viên Hoa Kỳ ở Đà Nẵng thuộc Toán Yểm Trợ Hành Quân Hải Quân (Naval Operation Support Group) đặt căn cứ tại Coronado, California do Đại Tá Phil H. Bucklew chỉ huy. Toán này chịu trách nhiệm về các hoạt động đặc biệt của Hải Quân Hoa Kỳ trong vùng Thái Bình Dương cũng như quản trị nhân viên do Toán cung cấp cho SOG để xử dụng trong các hoạt động tại Việt Nam..

+ PTF Loại Cũ

Hai PTF đầu tiên được dự trù trang bị cho LLHT là loại cũ từ thời đệ nhị thế chiến (giống PT 109 của TT Kennedy), dùng máy Packard chạy bằng xăng máy bay nên còn được gọi là "tầu xăng". Ngay từ lúc đầu, các giới chức quen thuộc với công tác Biệt Hải tại Đà Nẵng cũng như Sài Gòn đã không tán thành việc xử dụng loại PTF cũ này, nhưng Hoa Thịnh Đốn ra lệnh cứ dùng thử. Do đó, vào khoảng tháng giêng năm 1963, Hải Quân Hoa Kỳ tân trang 2 chiến đĩnh là các PT-810 và PT-811 đang tồn trữ tại Hải Quân Công Xưởng Philadelphia.

Đây là kiểu Ngư Lôi Đĩnh dùng trong đệ nhị thế chiến nhưng được đóng vào năm 1950. Vũ khí trang bị nguyên thủy gồm ống phóng ngư lôi, 2 đại bác 40 ly một ở trước mũi và một ở sân sau, 2 đại bác 20 ly, 2 đại liên 50 bên hông. Khi sang Việt Nam, khẩu đại bác 40 ly trước mũi được cắt bỏ và thay bằng khẩu súng cối 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên 50. Hai PT này được đổi tên là PTF-1 và PTF-2. Sau khi chạy thử, cả 2 chiếc PTF gặp khá nhiều trở ngại kỹ thuật nên được giữ lại tại công xưởng Philadelphia để sửa chữa. Vào khoảng thời gian này, Hải Quân Hoa Kỳ cũng vừa nhận được 2 chiếc PTF mới loại "Nasty" đặt mua từ Na Uy, đặt tên là PTF-3 và PTF-4.

Ngày 19 tháng giêng năm 1964, các PTF-1và PTF-2 được chiến hạm Pioneer Myth chở từ Norfolk đến Subic Bay vào đầu tháng 2 và đến Việt Nam khoảng tháng 3 năm 1964. Lúc này, các PTF-3 và PTF-4 loại "Nasty" cũng đã tới Việt Nam từ trước, vào khoảng cuối tháng 2/64. Các PTF-1 và PTF-2 được chạy thử tại Đà Nẵng và nhận thấy rằng không được an toàn và hữu hiệu vì nhiều lý do. Thứ nhất, tầu chạy bằng xăng nên có thể phát nổ dễ dàng nếu bị trúng đạn trong lúc công tác. Thứ hai máy nổ rất ồn ào, gây nhiều tiếng động nên không thích hợp cho việc thả và vớt toán vì dễ bị lộ. Thứ ba, máy rất khó tái khởi động sau khi tắt vì hơi bị kẹt trong lòng máy. Điều này rất nguy hiểm vì sau khi thả toán, chiến đĩnh có thể phải tắt máy để tránh gây tiếng động, nhưng vẫn có thể cần khởi động ngay trong trường hợp khẩn cấp. Thứ tư, máy rất khó vào số lùi. Tuy có khuyết điểm nhưng tầu xăng có hỏa lực mạnh và vận tốc tương đối cao nên rất hữu hiệu trong các công tác pháo kích hay yểm trợ hải pháo.

Ngoài các vấn đề an toàn nêu trên, vì các PTF này thuộc loại cũ không dùng đã lâu nên khó kiếm cơ phận. Hơn nữa, việc dùng chiến đĩnh chế tạo tại Hoa Kỳ cũng là một trở ngại vì theo qui luật, các phương tiện và võ khí xử dụng trong các cuộc hành quân biệt kích đều không được mang xuất xứ từ Hoa Kỳ để tránh các rắc rối về ngoại giao.

Các PTF loại cũ này tham dự một số công tác đáng kể, nhưng sau này, trong những hoạt động vào ngày 30 tháng 7 và 3 tháng 8 năm 1964, cả 2 PTF-1 và PTF-2 đều bị trở ngại về máy móc nên sau đó được thay thế bằng các PTF tối tân hơn do Na Uy chế tạo.

Tổng cộng chỉ có 2 PTF loại cũ được xử dụng trong LLHT. Một trong hai hạm trưởng của loại "tầu xăng" này kể lại như sau:

"Máy chạy để ở vị thế ngừng (idle) không được đều, tiếng máy "gầm gừ" nghe rất lạ. Sự khởi động của máy rất khó khăn. Khi khởi động máy thường phát ra tiếng nổ rất lớn và thổi ra một cục lửa lớn bằng trái banh xa chừng một thước rưỡi. Chân vịt của tầu rất lớn nên quạt nước thật mạnh, mỗi khi tầu cập cầu hay rời bến đều làm cho vịnh nổi sóng. Tầu chỉ chạy tốt với tốc độ cao, chạy chậm dễ bị chết máy. Do đó cơ khí viên rất mệt, phải luôn luôn trông chừng cho máy khỏi bị tắt. Khi máy bị tắt thì khởi động rất khó, đôi khi hết cả bình gió ép! Vận tốc của tầu rất cao, khi đi (lúc tầu nặng vì còn nhiều dầu) có thể tới 35-40 gút, khi về thì 40-45 gút. Chẳng chiếc tầu nào giám cập cạnh hoặc đối diện với tụi tôi. Chúng tôi cũng không bao giờ cập cạnh nhau. Hạm trưởng các tầu khác thường gọi chúng tôi là 2 thằng thủy quái.

Tầu được trang bị 1 đại bác 40 ly, 2 đại bác 20 ly, 2 đại liên 50 và một súng cối 81 ly gắn thêm đại liên 50. Công tác của tụi tôi là chỉ có bắn phá chứ không thả hay vớt người, thành ra rất nhàn hạ và luôn luôn thành công. Công tác của những tầu khác là thả người và vớt người nên đôi khi sai hẹn hay trở ngại vớt không được, nhiều khi đi không lại về không, có khi phải chờ dài cả cổ mới gặp được".

+ PTF Na Uy (Nasty)

Vì các khuyết điểm khó khắc phục nói trên của loại tầu xăng nên khoảng cuối năm 1965, LLHT được trang bị những khinh tốc đĩnh loại "Nasty" tối tân nhất thế giới vào thời bấy giờ do Hải Quân Na Uy và Tây Đức cùng nghiên cứu và chế tạo.

Khinh tốc đĩnh Nasty do kiến trúc sư Jan H. Lingen của Na Uy vẽ kiểu sau khi tham khảo ý kiến với các sĩ quan thuộc hải quân Hoàng Gia Na Uy và tổng hợp những ưu điểm của các loại ngư lôi đĩnh PT của Hoa Kỳ và Fairmile "D" của Anh. Loại tầu tuần tiễu duyên hải này có thể mang theo thủy thủ đoàn 19 người. Chiếc Nasty đầu tiên được chế tạo cho hải quân Na Uy mang tên KNM TJELT (P-343). Tổng cộng, Na Uy chỉ đóng 42 chiếc Nasty, gồm 20 cho Na Uy, 6 cho Hy Lạp, 2 cho Thổ Nhĩ Kỳ và 14 cho Hoa Kỳ dùng tại Việt Nam.

Hai chiếc Nasty đầu tiên được giao cho Hải Quân Hoa Kỳ vào đầu năm 1963 tại Little Creek, Virginia, sau khi chạy thử, được đặt tên là PTF-3 và PTF-4 vào ngày 3 tháng 5 năm 1963, rồi được đưa đi huấn luyện tại San Diego. Ngày 17 tháng 9, hai chiến đĩnh được chiến hạm Point Defiance (Landing Ship Dock - LSĐ 31) chở đến Pearl Harbor, Hawaii rồi tới Subic Bay một tháng sau đó. Tại Subic, các PTF-3 và PTF-4 được biến cải để gắn thêm thùng đựng nhiên liệu để nâng cao tầm hoạt động, bằng cách gỡ bỏ pháo tháp 40 trước mũi, thay vào đó bằng ụ súng 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên 50. Ngày 22 tháng 2 năm 1964, cả hai PTF được đưa lên chiến hạm Carter Hall để chở qua Việt Nam. Nhưng trong lúc đưa lên chiến hạm chuyên chở, PTF-3 bị sóng đập vào thành tầu lớn khiến vỏ bị bể, vì vậy được để lại Subic Bay để sửa chữa. Mãi đến cuối tháng 2/64, PTF-3 mới đến Đà Nẵng.

Trong thời gian đó, vào ngày 1 tháng 2 năm 1964, Na Uy lại giao thêm 4 chiếc Nasty mới là các PTF 5, 6, 7 và 8 tại hải cảng Bergen, Na Uy. Các tầu này được đưa lên chiến hạm Point Barrow (AKD-1) chở tới Subic Bay vào ngày 3 tháng 3. Sau khi được biến cải và tân trang, các Nasty này được đưa đến Việt Nam vài tháng sau đó.

Khinh tốc đĩnh Nasty có vỏ bằng ván ép nhiều lớp đặc biệt, trọng tải 75 tấn, dài khoảng 80 bộ, rộng 24.7 bộ, tầm nước 3.7 bộ phía trước, 6.10 bộ chỗ chân vịt sau lái, có thể mang 18 tấn hay 6,100 gallons dầu cặn, tầm hoạt động lên đến 1,000 hải lý với tốc độ tiết kiệm. Máy tầu loại Napier & Deltic của Anh, 18 xy lanh, vận tốc đường trường khoảng 35 gút, vận tốc tác chiến tối đa có thể lên đến 50 gút khi tầu không mang nhiều nhiên liệu..

Về vũ khí, Nasty được trang bị 1 súng cối 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên 50 trước mũi. Sân sau lái đặt khẩu đại bác 40 ly, hai bên hông ngang đài chỉ huy gắn đại bác 20 ly. Dụng cụ hải hành gồm la bàn điện, máy dò chiều sâu và radar loại Decca có tầm hữu dụng 50 hải lý với màn ảnh chính đặt trong trung tâm chiến báo và "repeater" trên đài chỉ huy. Radar này thường được dùng để hải hành hay hải thám, nhưng khi cần, ăng ten có thể ngóc lên 15 độ để phòng không. Tuy radar thuộc loại tối tân thời bấy giờ, nhưng các mạch điện còn dùng đèn điện tử nên khi biển động, tàu nhảy sóng và bị đập mạnh xuống mắt nước, các đèn dễ bị lỏng hoặc cháy. Máy truyền tin gồm các loại âm thoại cũng như tín hiệu.

Đặc điểm của loại Nasty là vận chuyển nhẹ nhàng, cần điều khiển máy nằm ngay trên đài chỉ huy nên hạm trưởng có thể tự mình tăng hay giảm máy dễ dàng không phải "truyền lệnh" trong lúc tác chiến hay trường hợp khẩn cấp. Đài chỉ huy lộ thiên, không có chỗ ngồi và tương đối thấp để đỡ cản gió. Khi hải hành với vận tốc cao, khoảng phân nửa thân tầu về phía trước mũi hỏng lên khỏi mặt nước, nếu gặp sóng ngược, phần lớn thân tầu bị dở lên khỏi mặt nước rồi đập xuống như phi ngựa, những đứng người trên đài chỉ huy đều phải "thủ thế" để giảm bớt sức dội và đỡ bị sóng biển tạt ướt. Tuy vậy, vỏ ván ép của Nasty có sức chịu đựng rất bền bỉ, không bị bể hay nứt. Với các đặc tính này, khinh tốc đĩnh Nasty rất được các hạm trưởng ưa chuộng và trở thành xương sống của LLHT.

+ PTF Osprey

Khoảng giữa năm 1968, để thay thế cho một số chiến đĩnh Nasty vào công xưởng sửa chữa đại kỳ hay bị hư hại trong lúc tác chiến, LLHT nhận thêm một số chiến đĩnh mới cũng thuộc loại PTF nhưng có tên là "Osprey" do Hoa Kỳ chế tạo. Loại khinh tốc đĩnh này do hãng đóng tàu John Trumpy and Sons of Annapolis, Maryland sản xuất, tổng cộng chỉ có 6 chiếc.

Các chiến đĩnh Osprey được đóng mô phỏng theo loại Nasty của Na Uy, nhưng vỏ bằng nhôm thay vì bằng gỗ. Đặc biệt, loại Osprey được trang bị máy điều hòa không khí nên rất tiện nghi khi đi công tác. Nghe nói sườn và phần sau lái tầu được nhập cảng "tiền chế" từ Na Uy. Khinh tốc đĩnh Osprey tuy vỏ bằng nhôm nhưng vẫn hơi nặng hơn loại Nasty nên vận tốc kém hơn khoảng 5 gút và mức độ nhảy sóng cũng kém hơn. Vũ khí trang bị tương tự như Nasty. Tuy nhiên, vỏ nhôm của Osprey không chịu được vận tốc cao khi hoạt động trong thời tiết xấu, tầu bị sóng nâng cao và đập mạnh xuống mặt biển nên vỏ tàu bị nứt chỉ sau 6 tháng hoạt động. Vì lý do này, có 4 chiến đĩnh được đưa qua Việt Nam để thử nghiệm, nhưng sau đó lại đưa về Hoa Kỳ và trở thành các PTF 23, 24, 25 và 26 trong Hải Quân.

D. Nhân Viên

Trước khi đi sâu vào phần quan trọng và đặc biệt nhất của LLHT là lãnh vực nhân sự, cần nhắc qua về nhân viên của toán xâm nhập đường biển trước đây, có thể coi là tiền thân của LLHT và SPVZH.

Đối với công luận Hoa Kỳ và thế giới tức là về mặt nổi, những cuộc hành quân biệt kích nhắm vào miền Bắc đều do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tự đứng ra tổ chức, do đó nhân viên tham dự đều là người Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, có một số người Đài Loan và đệ tam quốc gia do CIA tuyển mộ trong giai đoạn đầu. Cũng giống như CIA đã thuê mướn nhân viên người Đài Loan lái những máy bay C-47 thả dù Biệt Kích ngoài Bắc, CIA cũng mướn những người thuộc "quốc gia thứ ba" dự trù xử dụng trong những cuộc hành quân Biệt Hải xuất phát từ Đà Nẵng.

Thoạt kỳ thủy khi còn xử dụng ghe Nautilus, thủy thủ đoàn đều là nhân viên dân chính Việt Nam, đa số gốc người Nghệ An, Hà Tĩnh hay gốc Nùng di cư vào miền Nam. Các ghe Nautilus được ngụy trang trông rất giống các ghe đánh cá ngoài Bắc để dễ trà trộn, bởi vậy thủy thủ đoàn cũng phải là người Việt giống như ngư phủ địa phương. Toán đổ bộ phần lớn cũng là người Việt. Tuy nhiên trong một vài công tác đổ bộ đầu tiên tại vùng Móng Cái gần biên giới Việt - Hoa, có một số người nhái Trung Hoa Quốc Gia tham dự, nhưng có lẽ họ chỉ nhân cơ hội để hoạt động trên lãnh thổ Trung Cộng.

Về sau, vì nhu cầu công tác, CIA thay thế các ghe Nautilus bằng ba duyên tốc đĩnh PCF là loại tầu mới và tối tân nên các nhân viên dân sự Việt Nam không đủ khả năng điều khiển. Vì vậy CIA đã mướn một số người thuộc đệ tam quốc gia để làm thuyền trưởng. Theo các tài liệu Hoa Kỳ và trong cuộc phỏng vấn gần đây của phóng viên Thụy Điển Sven Oste, thuyền trưởng những chiếc Swift này đều là người quốc tịch Na Uy (ông Oste đã phỏng vấn 2 trong số những người Na Uy từng làm thuyền trưởng Swift tại Việt Nam). Ngoài thuyền trưởng người Na Uy, mỗi chiếc Swift thường có thêm 3 nhân viên dân chính Việt Nam: một tài công, một xạ thủ và một thông dịch viên. Ba thuyền trưởng người Na Uy này thường được gọi đùa là "dân Viking". Họ được tuyển mộ từ Na Uy vào tháng 7/63 và đi chuyến công tác cuối cùng vào ngày 27/5/64, sau đó họ rời Việt Nam vào tháng 6/64 khi mãn giao kèo. Nhận xét chung về người Na Uy, họ là những thuyền trưởng tương đối có khả năng và chu toàn nhiệm vụ được trao phó.

Vào tháng 6/64, sau khi những người Na Uy mãn giao kèo, một số người quốc tịch Trung Hoa đuợc tuyển mộ để thay thế, nhưng khi việc huấn luyện hoàn tất thì chiến đĩnh Swift không còn được dùng trong những công tác vượt vĩ tuyến 17 Bắc nữa.

Về toán đổ bộ, thoạt tiên có một số người thuộc quốc tịch thứ ba như Trung Hoa Quốc Gia trong vài chuyến đầu gần biên giới Hoa - Việt, nhưng sau đó, nhân viên đều là Biệt Hải, đa số thuộc Liên Đoàn Người Nhái HQVNCH.

Đối với các chiến đĩnh PTF, lúc đầu CIA mướn những người Đức để huấn luyện và dự tính dùng vào những chức vụ then chốt, còn người Nùng và Việt Nam chỉ là phụ tá. Nhưng sau đó, những người Đức bị sa thải vì thường uống rượu say sưa. Nhóm người Đức dựa vào giao kèo để phản đối, nhưng sau này CIA trả cho họ một số tiền cho êm chuyện. Nhóm người Đức này không đi một chuyến công tác nào trên PTF. Những chuyến công tác đầu tiên của PTF vào tháng 7 và 8/64 đều do các sĩ quan HQVNCH chỉ huy. Toán đổ bộ dùng PTF đại đa số là người Việt Nam với một số ít người thuộc sắc tộc thiểu số Nùng.

Kể từ khi SPVZH và LLHT được chính thức thành lập, thủy thủ đoàn của các PTF và Swift đều là những quân nhân Hải Quân VNCH tình nguyện. Vì số người tình nguyện bao giờ cũng cao hơn số được thâu nhận nên việc tuyển lựa rất kỹ càng, căn cứ vào kinh nghiệm hải hành, tinh thần phục vụ, sức khỏe và khả năng tác chiến. Việc điều tra an ninh cũng rất gay go với mức độ "mật" hay "tối mật". Khi được tuyển chọn mỗi người phải ký một giao kèo có hiệu lực trong vòng một năm. Sau đó, cứ mỗi 6 tháng khi giao kèo hết hạn, nhân viên có quyền ký thêm 6 tháng nữa hoặc thuyên chuyển về Hải Quân. Mỗi lần ký giao kèo, người tình nguyện, dù sĩ quan hay đoàn viên, đều lãnh một số tiền bằng nhau. Ngoài ra, còn có tiền phụ cấp cho mỗi chuyến công tác trên vĩ tuyến 17 và tiền phụ trội ẩm thực. Ngân khoản này đều do chính phủ Hoa Kỳ cung cấp. Tiền lương Hải Quân vẫn được lãnh hàng tháng như thường lệ.

Về việc tuyển mộ tình nguyện này, một sĩ quan từng phục vụ lâu năm trong LLHT kể lại như sau:

"... Tưởng cuộc đời mình dính liền với Hạm Đội thì một hôm, HQ Trung Tá... xuống gặp anh em chúng tôi, ngỏ ý tuyển mộ một số sĩ quan trẻ có khả năng để phục vụ trên các khinh tốc đĩnh trong các nhiệm vụ đặc biệt. Với máu ưa mạo hiểm sẵn có cũng như niềm ngưỡng mộ đối với hình ảnh hào hùng của cố Tổng Thống Kennedy lúc ông còn là Hạm Trưởng PT 109 trong Đệ Nhị Thế Chiến, chúng tôi chỉ cần có mấy ngày để rời bỏ Hạm Đội để bước vào một thử thách mới. Khóa chúng tôi gồm có 6 người, cộng thêm 6 bạn khóa 11 trở thành nhóm Sĩ Quan trẻ đầu tiên của LLHT".

Một khi đã ký giao kèo gia nhập LLHT, người tình nguyện không còn thuộc hệ thống chỉ huy của Hải Quân nữa, mà trở thành nhân viên của Lực Lượng Đặc Biệt nên không cần mặc quân phục Hải Quân, ngoại trừ sáng thứ hai khi làm lễ thượng kỳ hay khi có thượng cấp thăm viếng. Trong doanh trại, đa số thường bận quân phục Bộ Binh. Khi đi công tác thường chỉ mặc bộ đồ bà ba đen. Ngay cả lý lịch cũng thay đổi, mỗi người lấy một tên giả, còn thư từ thì gửi về một hộp thư chung cho toàn lực lượng.

E. Vũ Khí Xử Dụng

Ngoài những vũ khí trang bị trên chiến đĩnh, toán đổ bộ lúc đầu còn xử dụng các hỏa tiễn thới chỉnh để bắn phá các mục tiêu, nhưng vì hỏa tiễn không được chính xác nên sau này họ xử dụng súng 57 ly không giật để tăng cường hỏa lực. Những ổ súng không giật di động này có thể thiết trí ở bât cứ nơi nào trên chiến đĩnh vì không cần dùng chân súng. Các ổ súng không giật thường được đặt ở sân trước ngay dưới chân khẩn súng cối 81 ly trên chiến đĩnh mỗi khi bắn phá mục tiêu trên bờ. Toán đổ bộ cũng thực tập bắn súng 57 ly bằng cách mang trên vai để có thể xử dụng vũ khí này trên xuồng cao su. Ngoài súng 57 ly, còn có các loại 90 ly hay 106 ly nhưng không được xử dụng thường xuyên. Nhiều loại mìn nổ chậm cũng được Biệt Hải dùng trong công tác phá hoại. Về vũ khí cá nhân, các nhân viên đổ bộ dùng loại súng AK của khối CS hay tiểu liên (K-gun) do Thụy Điển chế tạo.

F. Tin Tức Tình Báo Và Không Ảnh

Trước khi lên đường hành quân, các Hạm Trưởng và trưởng toán đổ bộ thường được thuyết trình về tình hình địch cũng như xem không ảnh mới nhất của vùng mục tiêu. Tin tức tình báo thường là cung từ của các tù binh hay dân đánh cá bị tại địa phương bị bắt về để khai thác. Các không ảnh này đa số do phi cơ "tối mật" U-2 chụp trên cao độ ngoài tầm hỏa tiễn phòng không cũng như phi cơ của BV. Các phi cơ U-2 thường xuất phát từ phi trường Biên Hòa, đôi khi từ căn cứ Clark Air Base bên Phi Luật Tân.

Tại phi trường Biên Hòa thường có hai phi cơ U-2 túc trực. Không ảnh của phi cơ U-2 là nguồn tình báo chính cho các cuộc hành quân OPLAN 34A. Thông thường, vào ngày có công tác, một phi cơ U-2 bay từ sáng sớm để chụp hình mục tiêu. Đến trưa, không ảnh đã có trong tay MACSOG tại Sài Gòn. Đôi khi không ảnh cũng được chụp bằng các phi cơ không người lái (drone) ở cao độ thấp hơn hoặc bằng cách chụp hình trên màn ảnh radar (radarscope photography) trên các phi cơ bay đêm.

G. Tinh Thần Chiến Đấu

Dĩ nhiên trong mỗi lần vượt vĩ tuyến 17 thi hành công tác, bao giờ cũng có những nguy hiểm chờ sẵn, nhưng thật ra những lo âu, hồi hộp không phải vì địch quân mà do cảm giác thiếu an toàn khi hoạt động trong vùng địch kiểm soát. Trong những chuyến công tác đầu tiên, tuy vẫn hải hành ngoài biển, nhưng một khi vượt qua lằn ranh tưởng tượng là vĩ tuyến 17 sang hải phận địch, ai cũng cảm thấy tinh thần căng thẳng. Ngược lại khi trở về vùng biển nhà, mọi người đều thở phào nhẹ nhõm.

Lâu dần, đầu óc cũng quen đi, hơn nữa so với các tầu tuần duyên Bắc Việt, các chiến đĩnh LLHT có hỏa lực mạnh hơn, vận tốc lại nhanh hơn nên lúc nào cũng chiếm được thế thượng phong. Vì vậy, những cảm giác lo âu ban đầu không còn nữa nhưng lúc nào cũng cần đề phòng cẩn mật và tập trung tâm trí chỉ vào việc hoàn thành công tác. Đã từng phục vụ tại các giang đoàn ở miền Nam, chúng tôi nhận thấy rằng những chuyến công tác vượt tuyến còn ít nguy hiểm hơn nhiều. Các giang đĩnh hoạt động trong sông lạch chật hẹp là mục tiêu bị động tốt cho địch quân ẩn núp hai bên bờ nhắm bắn bất cứ lúc nào; ngược lại, các chiến đĩnh tối tân của LLHT ngoài biển cả luôn luôn nắm vai trò chủ động.

Mỗi chuyến công tác vượt tuyến là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm rất hào hứng và cũng là một thử thách. Ngoài ra, các chuyến công tác tương đối ngắn, ít khi kéo dài quá 24 tiếng đồng hồ, không mấy nguy hiểm lại được đãi ngộ xứng đáng nên tinh thần của nhân viên LLHT rất cao. Bằng cớ là có rất nhiều người thuộc thủy thủ đoàn chưa tới phiên, nhưng vẫn tình nguyện đi công tác thay thế cho những người vắng mặt ở thủy thủ đoàn khác cho đủ cấp số. Lắm người tình nguyện này đi công tác nhiều gấp đôi, gấp ba so với các bạn đồng đội thuộc thủy thủ đoàn chính của mình.

2. Lực Lượng Biệt Hải

Ngay từ tháng 11 năm 1962, một căn cứ đã được thiết lập tại bãi biển Mỹ Khê do CIA điều khiển để các ngưới nhái Hoa Kỳ (SEAL - Sea Air Land) huấn luyện các toán đổ bộ. Tuy căn cứ này do CIA chịu trách nhiệm cho tới năm 1964, nhưng việc huấn luyện hoàn toàn do SEAL đảm trách.

Bãi biển Mỹ Khê nằm về hướng đông của bán đảo Tiên Sha, từ chân núi Khỉ (hay núi Sơn Chà) chạy dài về hướng Nam tới Ngũ Hành Sơn (Marble Mountain). Bán đảo Tiên Sha thuộc khu phía đông của thành phố Đà Nẵng. Tất cả các căn cứ của toán Biệt Hải đều nằm dọc theo bãi biển Mỹ Khê. Các toán Biệt Hải sống và huấn luyện trong những trại riêng biệt, tương đối nhỏ chỉ đủ cho vài ba chục người. Có trại dành riêng cho toán Biệt Hải gốc Bộ Binh (Romulus?), có trại dành cho Biệt Hải gốc người nhái Hải Quân (Vega), có trại dành riêng cho toán xử dụng chất nổ dưới nước. Ngoài ra, còn có trại riêng cho những người Nùng chuyên việc canh phòng các doanh trại.

Vào khoảng năm 1964, toán người nhái Hải Quân Hoa Kỳ đảm trách việc huấn luyện các toán Biệt Hải, dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Cathal L. Flynn. Các toán Biệt Hải được huấn luyện về kỹ thuật chèo xuồng cao su, đổ bộ, bơi ngầm dưới biển, xử dụng chất nổ v.v... Về vũ khí, đầu tiên họ được huấn luyện cách xử dụng hỏa tiễn loại 3.5 inch thời chỉnh (time- delay) do CIA cung cấp. Trên nguyên tắc, một toán có thể đổ bộ gần mục tiêu rồi đặt giàn phóng hỏa tiễn, điều chỉnh thời gian khai hỏa rồi rút về căn cứ trước khi hỏa tiễn khai hỏa. Tuy nhiên, loại hỏa tiễn này không được hiệu quả vì kém chính xác, hệ thống thời chỉnh hay bị sai và nhất là nguy hiểm vì hay phát nổ bất tử. Những hỏa tiễn này đã được dùng vài lần trong các cuộc đổ bộ ngoài Bắc nhưng sau bị loại bỏ vì không có hiệu quả và sau này được thay thế bằng súng 57 ly không giật. Đây là loại súng đại bác hạng nhẹ với hơi nổ được đẩy ra phía sau thay vì theo nòng súng tống ra phía trước nên "không giật" do đó không cần chân hay đế súng để triệt tiêu sức giật.

Vào tháng 3 năm 1964, Hải Quân Đại Úy Trịnh Hòa Hiệp thuộc Liên Đoàn Người Nhái HQVNCH được thuyên chuyển ra làm Chỉ Huy Trưởng toán LĐNN tại Mỹ Khê. Đây là toán hoạt động hữu hiệu và đạt được nhiều thành quả nhất.

So Phòng Vệ Duyên Hải Chapter 1



I. Bối Cảnh Lịch Sử
Vào năm 1973, tuy hiệp định ngưng bắn Paris đã được ký kết nhưng những trận đánh giữa hai phe Quốc - Cộng để dành quyền chủ động tại chiến trường miền Nam Việt Nam mỗi lúc một trở nên khốc liệt. Trong lúc quân lực Hoa Kỳ coi như đã "rút lui trong danh dự" không còn tham chiến, Cộng quân được "bật đèn xanh" công khai xua quân xâm chiếm miền Nam. Hình thức chiến tranh chuyển từ du kích chiến sang trận địa chiến bằng những trận đánh dữ dội với quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn chủ lực có những vũ khí nặng như chiến xa, đại pháo hỗ trợ.
Nhìn chung, chiến trường sôi động nhất tại các vùng giới tuyến và biên giới Lào - Việt tại miền Trung và Miên - Việt tại miền Nam. Cộng quân từ vùng phi quân sự hay từ các căn cứ địa an toàn bên Lào, Cam Bốt ngang nhiên tràn qua lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, trong lúc phe Quốc Gia vì không còn đủ sức tấn công dành quyền chủ động nên chỉ có thể dùng toàn lực ngăn chặn trong tư thế phòng thủ.
Trong lúc các quân binh chủng bạn như Không Quân, Bộ Binh, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh v.v... tung hết lực lượng để đối đầu với địch quân, thì phần đóng góp của các đơn vị Hải Quân trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này cũng không phải là nhỏ. Tại Vùng I và Vùng II Chiến Thuật nơi các trận đánh thường xảy ra dọc theo duyên hải, các chiến hạm ngày đêm tuần tiễu ngoài khơi cũng như yểm trợ hải pháo. Trong lúc đó, các Duyên Đoàn phối trí tại các điểm chiến lược quan trọng dọc bờ biển cũng sát cánh với các đơn vị bạn trong các cuộc hành quân thủy bộ.
Riêng tại Vùng III Chiến Thuật với thủ đô Sài Gòn và Vùng IV Chiến Thuật là vựa lúa nuôi sống Miền Nam, vai trò của các đơn vị Hải Quân lại càng quan trọng. Ngoài phần lãnh hải cần được tuần phòng nghiêm ngặt, còn phải chận đứng mọi di chuyển và xâm nhập của địch quân qua các sông ngòi chằng chịt. Việc yểm trợ, tiếp tế cho các đồn bót ven sông cũng cần thiết không kém. Hơn nữa, cường độ chiến tranh bên quốc gia láng giềng Cam Bốt cũng đang gia tăng dữ dội. Cộng quân đã phong tỏa và cắt đứt những đường bộ tiếp vận về Nam Vang nên thủy lộ sông Cửu Long từ Tân Châu - Hồng Ngự qua bến phà Neak Luoeng lên đến thủ đô Cam Bốt trở thành mạch máu chính nuôi sống chính quyền Lon Nol thân Hoa Kỳ.
Để đáp ứng nhu cầu chiến trường, hoạt động của các Giang Đoàn Hải Quân tai Miền Nam đã gia tăng đáng kể để bảo vệ lãnh thổ cũng như khai thông thủy lộ Sông Cửu Long. Vùng IV Chiến Thuật, ngoài các nhánh sông Cửu Long vươn dài như những cánh tay bạch tuộc ôm chặt vựa lúa Miền Nam, còn có rất nhiều kinh, rạch. Vì vậy, đây là địa bàn hoạt động của rất nhiều Giang Đoàn Xung Phong, Thủy Bộ, Ngăn Chặn và Tuần Thám. Từ những giòng Tiền Giang, Hậu Giang, U Minh, Đồng Tháp đến những nơi xa xôi hẻo lánh như U Minh, Cà Mau, Năm Căn v.v..., đâu đâu cũng có mặt các giang đĩnh ngày đêm ngăn chặn giặc thù. Những giang đĩnh này đã nhiều lần làm Cộng quân khiếp vía trong những trận đánh long trời lở đất và cũng là nguồn hy vọng cho những đồn bót ven sông.
Tuy có rất nhiều đơn vị Hải Quân góp phần đắc lực vào việc tiễu trừ giặc Cộng, bài này chỉ viết về những hoạt động của một đơn vị Hải Quân nồng cốt thuộc Vùng IV Chiến Thuật, đó là Giang Đoàn 26 Xung Phong, đơn vị tác giả được hân hạnh phục vụ trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng kể trên. Hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều bài viết tương tự để chiến công của những chiến sĩ áo trắng trong sông không bị mai một với thời gian. Bài viết này cũng nhằm mục đích vinh danh và kính tặng những chiến sĩ Hải Quân anh dũng đã một thời gắn bó với các kình ngư trong sông, đặc biệt các bạn đồng đội thân mến đã phục vụ tại Giang Đoàn 26 Xung Phong.
Trước khi đi sâu vào chi tiết về các trận đánh của Giang Đoàn 26 Xung Phong tại chiến trường Tân Châu - Hồng Ngự vào năm 1973, tưởng cũng nên tóm lược hệ thống tổ chức hành quân Hải Quân để độc giả, nhất là những người không quen thuộc với tổ chức Hải Quân, dễ bề tìm hiểu và theo dõi.
II. Sơ Lược Tổ Chức Hành Quân Hải Quân
Nhằm đáp ứng nhu cầu chiến trường mỗi ngày một gia tăng và để yểm trợ hữu hiệu cho các đơn vị bạn, ngoài Hạm Đội lo việc tuần tiễu và chuyển vận ngoài khơi, mỗi vùng Chiến Thuật còn có các các Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng để để phối hợp chặt chẽ với các Quân Khu liên hệ. Các Bộ Tư Lệnh Vùng chia thành hai loại: Vùng Duyên Hải đảm nhiệm công tác dọc theo bờ biển, trong khi các Vùng Sông Ngòi lo việc hành quân trong sông. Tổng Cộng, Hải Quân có 5 Vùng Duyên Hải và 2 Vùng Sông Ngòi.
A. Vùng Duyên Hải
Vùng Duyên Hải trực tiếp chỉ huy các đơn vị cơ hữu như Hải Đội Duyên Phòng, Duyên Đoàn, Đài Kiểm Báo v.v... và chiến hạm Hạm Đội tăng phái để tuần tiễu vùng bờ biển trách nhiệm cũng như phối hợp hành quân với Quân Khu tương ứng. Bộ Tư Lệnh các Vùng Duyên Hải được phối trí như sau:
1. Tại Vùng I Chiến Thuật
Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải đóng tại bán đảo Tiên Sa (vùng Sơn Chà) Đà Nẵng, chịu trách nhiệm vùng bờ biển từ vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải, Cửa Việt) tới Quảng Ngãi.
2. Tại Vùng II Chiến Thuật
Bộ Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải đóng tại Cam Ranh, chịu trách nhiệm vùng bờ biểu từ Bình Định tới Phan Thiết.
3. Tại Vùng III Chiến Thuật
Bộ Tư Lệnh Vùng III Duyên Hải đóng tại Vũng Tàu. Chịu trách nhiệm vùng bờ biển từ Phước Tuy tới mũi Cà Mau.
4. Tại Vùng IV Chiến Thuật
Đặc biệt Vùng IV Chiến Thuật có bờ biển chạy dài từ mũi Cà Mau lên tới biên giới Miên - Việt mãi tận Hà Tiên và Vịnh Thái Lan với rất nhiều hải đảo nên có tới 2 Vùng Duyên Hải.
- Bộ Tư Lệnh Vùng IV Duyên Hải đóng tại đảo Phú Quốc.
- Bộ Tư Lệnh Vùng V Duyên Hải đóng tại Năm Căn thuộc tỉnh An Xuyên. Đây là một Bộ Tư Lệnh khá đặc biệt được thành lập sau này để đáp ứng nhu cầu hành quân bình định vùng cửa sông Ông Đốc, Gành hào, Rạch Giá và các sông ngòi thuộc khu vực Cà Mau và U Minh.
B. Vùng Sông Ngòi
Vùng Sông Ngòi đảm trách việc tuần tiễu trong sông và phối hợp hành quân với Quân Khu liên hệ. Đơn vị nồng cốt của Vùng Sông Ngòi là các Giang Đoàn. Vùng I và Vùng II Chiến Thuật vì ít sông lạch nên không có Vùng Sông Ngòi. Tuy nhiên, có một số Giang Đoàn Trục Lôi và Tuần Thám hoạt động tại vùng Cửa Việt, Cửa Thuận An và Hội An thuộc Vùng I Chiến Thuật được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải. Vùng II Duyên Hải không có Giang Đoàn mà chỉ có những Duyên Đoàn.
Miền Nam lắm sông nhiều rạch nên có rất nhiều Giang Đoàn hoạt động. Hai Bộ Tư Lệnh Vùng Sông Ngòi chỉ huy các Giang Đoàn này được phân chia như sau:
1. Tại Vùng III Chiến Thuật
Bộ Tư Lệnh Vùng III Sông Ngòi đóng tại Sài Gòn. Khu vực hoạt động bao gồm sông Sài Gòn, các sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây lên tới tận Gò Dầu Hạ sát biên giới Miên - Việt thuộc tỉnh Tây Ninh. Ngoài quân cảng Sài Gòn, Bến Lức và Long An là các căn cứ Hải Quân lớn thuộc vùng III Sông Ngòi với nhiều giang đĩnh đủ loại nằm sát chân cầu có thể nhìn thấy từ Quốc Lộ 4.
2. Tại Vùng IV Chiến Thuật
Bộ Tư Lệnh Vùng IV Sông Ngòi đặt tại Bến Ninh Kiều, Cần Thơ (Tây Đô). Đây là một đại đơn vị nồng cốt hoạt động trong sông của Hải Quân mà đơn vị chiến đấu căn bản là các Giang Đoàn Xung Phong, những đơn vị Hải Quân kỳ cựu nhất bắt nguồn từ các Hải Đoàn đã từng chiến đấu tại Bắc Việt, được người Pháp chuyển giao cho Hải Quân VNCH vào các năm 1953 - 1954. Sau này, khi nói tới Giang Đoàn Xung Phong, các quân nhân Hải Quân thường nghĩ ngay tới Vùng IV Sông Ngòi với các giòng sông quen thuộc như Tiền Giang, Hậu Giang, Cái Lớn, Cái Bé, Ông Đốc, Gành Hào v.v... cùng những con kinh nổi tiếng như Đồng Tiến, Mang Thít, Chợ Gạo, Mỏ Cày, Xà No, Cái Sắn, Giang Thành v.v...
III. Giang Đoàn Xung Phong
Ngay từ khi mới thành lập, Vùng IV Sông Ngòi đã có 4 Giang Đoàn Xung Phong được phối trí như sau:
1. Giang Đoàn 21 Xung Phong
Đóng tại Mỹ Tho, gần Bắc Rạch Miễu trên đường đi sang Kiến Hòa. Vùng hoạt động gồm khu vực Tiền Giang, Kinh Chợ Gạo (Mỹ Tho), Sông Hàm Luông (Kiến Hòa), Cửa Tiểu v.v...
2. Giang Đoàn 23 Xung Phong
Đóng tại Vĩnh Long, gần Bắc Cổ Chiên I trên đường đi sang quận Chợ Lách. Vùng hoạt động bao gồm sông Cổ Chiên, Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười v.v...
3. Giang Đoàn 25 Xung Phong
Đóng tại Cần Thơ, gần bến Ninh Kiều, chung với Bộ Tư Lệnh Vùng IV Sông Ngòi. Vùng hoạt động gồm khu vực Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau v.v...
4. Giang Đoàn 26 Xung Phong
Đóng tại Long Xuyên, gần công viên Nguyễn Du. Vùng hoạt động bao gồm khu vực Sa Đéc, Vàm Nao, Chợ Mới, Châu Đốc, Tân Châu, Hồng Ngự lên tận biên giới Miên - Việt.
Những vùng hoạt động trên chỉ được phân chia theo lý thuyết vì trên thực tế, tùy theo nhu cầu hành quân, các Giang Đoàn thường được du di điều động tăng phái hay xuất phái. Sau này, có thêm một số Giang Đoàn Xung Phong được thành lập để đáp ứng với đòi hỏi của chiến trường. Thí dụ như là Giang Đoàn 27 Xung Phong đóng chung hậu cứ với Giang Đoàn 21 Xung Phong tại Mỹ Tho để trở thành Liên Giang Đoàn 21/33 Xung Phong. Giang Đoàn 31 Xung Phong đóng chung hậu cứ với Giang Đoàn 23 Xung Phong tại Vĩnh Long để trở thành Liên Giang Đoàn 23/31 Xung Phong và Giang Đoàn 29 Xung Phong đóng chung với Giang Đoàn 25 Xung Phong tại Cần Thơ để trở thành Liên Giang Đoàn 25/29 Xung Phong.
Mỗi Giang Đoàn Xung Phong có bảng cấp số tương đương với một Tiểu Đoàn Bộ Binh và được trang bị nhiều loại giang đĩnh có công dụng khác nhau như một hạm đội trong sông. Số giang đĩnh tiêu chuẩn được liệt kê đại cương như sau:
- 6 Tiểu Vận Đĩnh (LCVP - Landing Craft Vehicle Personnel): Đây là loại tầu mũi bằng, vỏ gỗ, một máy, có thể chở được chừng một trung đội bộ binh, với cửa đổ bộ mở xuống, kéo lên được bằng giây cáp. Tuy nhiên, các LCVP của Giang Đoàn Xung Phong đã được biến cải với cửa đổ bộ được hàn kín. Những giang đĩnh này không còn được dùng để chở quân mà được dùng để rà mìn trong sông, nhất là trong những kinh, rạch nhỏ. Về hỏa lực, mỗi LCVP được trang bị một đại bác 20 ly trước mũi, hai đại liên 30 bên hông và một đại liên 30 trên mui tại phòng lái. Thủy thủ đoàn LCVP gồm 4 người. LCVP thường hoạt động từng cặp để yểm trợ lẫn nhau.
- 6 Tiểu Giáp Đĩnh (FOM): Vỏ sắt, mũi nhọn, một máy, vận tốc cao, vận chuyển lẹ làng như Khu Trục Hạm trong hạm đội. Mỗi FOM được trang bị một đại liên 50 trước mũi, hai đại liên 30 bên hông và một đại liên 30 trên mui gần phòng lái. Thủy thủ đoàn FOM gồm 4 người và cũng hoạt động từng cặp như LCVP.
- 6 Trung Vận Đĩnh (Landing Craft Medium LCM-6): Đây là loại giang đĩnh mũi bằng, hai máy với cửa đổ bộ kéo bằng máy, có thể chở chừng một đại đội bộ binh. Vũ khí trang bị gồm một đại bác 20 ly phía sau lái, hai đại bác 20 ly bên hông và hai đại liên 30 trong phòng lái.
- 1 Giang Đĩnh Chỉ Huy và Truyền Tin (Monitor Commandement): Đây là loại giang đĩnh LCM-6 biến cải, có phòng ngủ sĩ quan, máy truyền tin để đặt bộ chỉ huy hành quân. Vũ khí trang bị gồm một hầm súng cối 81 ly đặt dưới lòng tầu, một đại bác 20 ly phía sau lái và hai đại liên 30 trong phòng lái.
- 1 Thiết Giáp Đĩnh (Monitor Combat): Cũng là loại LCM-6 biến cải, nhưng với vỏ sắt dầy hơn với pháo tháp đại bác 40 ly gắn trước mũi chung với đại liên 50. Ngoài ra, còn có một đại bác 20 phía sau lái, 2 đại liên 50 bên hông và một hầm súng cối 81 ly giống như Giang Đĩnh Chỉ Huy và Truyền Tin. Thiết Giáp Đĩnh có hỏa lực mạnh nhất trong các giang đĩnh và được coi như Thiết Giáp Hạm trong sông.
Theo tiêu chuẩn, mỗi Giang Đoàn Xung Phong có chừng 20 giang đĩnh đủ loại, được tổ chức tương tự như một hạm đội ngoài biển. Sau này, đa số các số Giang Đoàn được trang bị loại giang đĩnh RPC (River Patrol Craft) hai máy để thay thế cho một số FOM cũ kỹ bị phế thải và còn thêm loại LCM-8 có khả năng chở Thiết Vận Xa và đại bác của Pháo Binh. Một số đơn vị còn có tới 2 Monitor Combat hay Commandemant. Tuy số lượng và loại Giang Đĩnh có thể không giống nhau, nhưng tựu chung, mỗi Giang Đoàn đều có khả năng tác chiến giống nhau, có thể thực hiện những cuộc hành quân phối hợp thủy-bộ biệt lập với khoảng 1 Tiểu Đoàn Bộ Binh.
IV. Giang Đoàn 26 Xung Phong
Đây là một trong những đơn vị chuyên hoạt động trong sông kỳ cựu nhất của Hải Quân VNCH. Các giang đĩnh của Giang Đoàn này phần lớn đã tham chiến tại các mặt trận lừng danh ở Bắc Việt trước năm 1954 trong thời kỳ chiến tranh Việt - Pháp. Tiền thân của Giang Đoàn 26 Xung Phong là các Dinassault của Pháp đã từng đóng những vai trò vô cùng quan yếu tại các chiến trường nổi tiếng Sông Lô, Việt Trì, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Phát Diệm, Sông Đáy v.v...
Hậu cứ của Giang Đoàn 26 Xung Phong đặt tại trại Vân Đồn thuộc tỉnh Long Xuyên, một thị trấn xinh đẹp, hiền hòa nằm ven bờ sông Hậu. Vùng hoạt động của đơn vị bao gồm các tỉnh An Giang, Sa Đéc, Cao Lãnh và Châu Đốc lên tới tận miền biên giới Miên - Việt. Tuy chịu trách nhiệm tại vùng có đông tín đồ Hòa Hảo tương đối an ninh, nhưng giang đĩnh của đơn vị thường phải phân tán và xé lẻ để có thể tuần tiễu khu vực trách nhiệm khá rộng lớn có nhiều sông rạch, hoặc phối hợp hành quân thủy - bộ hay yểm trợ, tiếp tế cho các đồn bót hẻo lánh ven sông. Các giang đĩnh luôn luôn tăng phái thường trực tại vùng biên giới Miên - Việt thuộc các quận Tân Châu - Hồng Ngự hay tỉnh Châu Đốc. Ngoài ra, đôi khi vì nhu cầu hành quân, một số giang đĩnh còn được tăng cường phối hợp với Giang Đoàn 25 đóng tại Cần Thơ để phối hợp hành quân với Sư Đoàn 21 Bộ Binh tại các vùng Cà Mau, Chương Thiện, Rạch Giá v...
Vào khoảng đầu thập niên 1970, cùng với chương trình tối tân hóa và bành trướng của Hải Quân, Long Xuyên trở thành một Căn Cứ Hải Quân lớn. Giang Đoàn 26 Xung Phong vẫn tiếp tục trú đóng tại đây, chung hậu với các đơn vị bạn mới được thành lập như Tiền Doanh Yểm Trợ, Bệnh Xá, Giang Đoàn Tuần Thám v.v...
V. Cộng Quân Phong Tỏa Hồng Ngự
Hồng Ngự (Xem Bản Đồ Hồng Ngự) là một quận lỵ cực Bắc của tỉnh Kiến Phong, nằm trên bờ Đông của Sông Cửu Long. Chỉ có một con đường bộ duy nhất nối liền với tỉnh lỵ Cao Lãnh, xuyên qua kinh Đồng Tiến và quận Kiến Văn. Đối diện với quận lỵ là cù lao Long Khánh trù phú, dân cư đông đúc với những vườn cây trái xum xuê, rậm rạp. Đặc biệt, mỏm Bắc của Cù Lao và vùng đất bồi do phù sa của Sông Cửu Long tích tụ hàng năm. Trên đầu doi này có một ngôi đình cổ không biết được xây cất từ bao giờ tọa lạc trên một thế đất cao như một ngọn đồi. Từ ngôi đình cổ hoang vắng, người ta có thể quan sát được một vùng sông nước mênh mông bát ngát với những bờ sông cát trắng, nước trong xanh, phong cảnh hùng vĩ hữu tình tuyệt đẹp.
Ranh giới của quận Hồng Ngự về phía Bắc và Đông Bắc gồm vùng biên giới Miên - Việt, chạy dài tới tận tiền đồn biên phòng Cái Cái giáp ranh tỉnh Kiến Tường (Mộc Hóa). Phía Tây là sông Cửu Long giáp quận Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang (Long Xuyên). Về phía Tây Bắc, nằm trên bờ Tây của sông Cửu Long chỉ cách Hồng Ngự chừng 5, 6 cây số là quận Tân Châu cũng thuộc tỉnh An Giang. Tại Tân Châu có một đơn vị Hải Quân là Giang Đoàn 58 Tuần Thám trấn đóng, Phía Nam giáp kinh Đồng Tiến với khu vực Phước Xuyên trong vùng Đồng Tháp Mười nổi tiếng chạy dài tới quận Kiến Văn.
Hồng Ngự chiếm địa thế quan trọng nằm ngay yết hầu thủy lộ sông Cửu Long và chặn đường xâm nhập của Cộng Quân từ Cam Bốt tràn xuống. Phần lớn những đồn bót thuộc Chi Khu Hồng Ngự đều nằm dọc ven sông và vùng biên giới để có thể phát hiện và ngăn chặn mọi di chuyển của địch quân. Vì địa thế gồm nhiều sông, kinh, rạch lớn nhỏ nên thông thường có một đơn vị Hải Quân thuộc Vùng IV Sông Ngòi tăng phái để lo việc hành quân, phòng thủ cũng như tiếp tế cho các đồn bót ven sông.
Vào khoảng tháng 3 năm 1973, chiến cuộc tại Miền Nam Việt Nam trở nên vô cùng sôi động sau những cuộc cường tập của Cộng Quân vào khắp 4 vùng Chiến Thuật sau Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Bên quốc gia láng giềng Cam Bốt, sự tranh chấp cũng đã tới giai đoạn quyết liệt một mất một còn. Cộng quân chiếm được ưu thế, cắt đứt đường tiếp vận quan trọng từ hải cảng Sihanoukville (Kompong Som) về thủ đô Nam Vang. Phi trường Pocheng Tong nằm trong tầm đạn pháo kích nên phi cơ tiếp vận lên xuống rất nguy hiểm và khó khăn. Có thể nói Nam Vang đã bị Cộng quân vây chặt khiến mọi quân dụng, vũ khí, đạn được v.v... cũng như mọi nhu yếu phẩm như gạo, dầu nhớt v.v... tối cần cho sự sống còn của chính quyền Lon Nol không thể nào đưa lọt vào thủ đô Cam Bốt bằng đường bộ cũng như đường hàng không.
Vì vậy, phương tiện duy nhất còn lại để tiếp tế cho Cam Bốt là sông Cửu Long. Thủy lộ này chạy dài từ cửa biển Vũng Tầu, qua bắc Mỹ Thuận, Hồng Ngự, Tân Châu trong lãnh thổ VNCH vượt bến phà Neak Luoeng tới thủ đô Nam Vang. Thủy lộ từ Vũng Tàu lên đến biên giới Miên - Việt thuộc các quận Tân Châu, Hồng Ngự dài khoảng 150 hải lý. Các tầu biển từ Vũng tầu lên Nam Vang thường neo nghỉ đêm tại Ngã Ba Đèn Đỏ gần Bắc Mỹ Thuận thuộc tỉnh Vĩnh Long trước khi ngược giòng Cửu Long tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến Tân Châu, các thương thuyền lại ngừng một lần nữa neo nghỉ đêm để quan thuế và thay đổi hoa tiêu trước khi vượt biên giới sang Cam Bốt. Điểm neo cuối cùng của các thương thuyền trong lãnh thổ Việt Nam này là ngã ba sông ngay trước quận Tân Châu.
Biết được sông Cửu Long là đường huyết mạch duy nhất còn lại có thể giúp cho chính quyền Lon Nol và cả nuớc Cam Bốt sống thoi thóp, Cộng quân quyết định mở một chiến dịch lớn nhằm bóp nghẹt thủy lộ tiếp vận sinh tử này bằng cách chiếm giữ khu vực quận Hồng Ngự. Nếu thành công, Cộng quân sẽ cắt đứt được thủy lộ qua Nam Vang, và thừa thắng, chúng có thể tràn sâu xuống vùng Kiến Tường - Mộc Hóa để tạo áp lực dọc Quốc Lộ 4 thuộc khu vực tỉnh Định Tuờng là trục lộ tối quan trọng từ Vùng IV về thủ đô Sài Gòn.
Để thực hiện ý đồ, khởi đầu, Cộng quân dàn một lực lượng chủ lực quân khá hùng hậu dọc theo vùng biên giới Miên - Việt thuộc các tỉnh Kiến Phong, Châu Đốc, An Giang và Rạch Giá để nghi binh và tạo áp lực. Đối diện bên phần đất Cam Bốt, khu vực thuộc các tỉnh Prey Veng, Kandal và Takeo cũng bị chúng tràn ngập. Lúc đó, vào đầu năm 1973, lực lượng Việt Cộng tại vùng này có tới 11 Trung Đoàn chủ lực cộng thêm quân Khmer đỏ. Ngoại trừ từ 3 tới 4 Trung Đoàn được phối trí trong phần đất Cam Bốt nhằm mục đích cầm chân lực lượng của Lon Nol, tất cả những đơn vị còn lại đều được xử dụng để tấn công vào khu vực Hồng Ngự.
Vì vậy, tình hình khu vực sông Cửu Long sát biên giới Miên - Việt thuộc khu vực Hồng Ngự trở nên vô cùng trầm trọng vì đôi bên đều quyết tâm dành quyền kiểm soát khu vực có tầm mức chiến lược vô cùng quan yếu này. Cộng quân dùng toàn lực cắt đứt thủy lộ sông Cửu Long để cô lập Cam Bốt và củng cố các trục xâm nhập vào Việt Nam qua ngả biên giới. Phía Hoa Kỳ không còn cách nào khác, phải tiếp tục tiếp tế cho Cam Bốt bằng mọi giá. Lúc đó, đa số các lực lượng tác chiến Hoa Kỳ đều đã rút khỏi Việt Nam trong khuôn khổ thỏa ước ngưng bắn Paris. Một số ít còn lại còn bị các đạo luật Cooper - Church của Quốc Hội Hoa Kỳ ngăn cấm không được than dự các cuộc hành quân bộ chiến ngoài biên giới Việt Nam. Vì vậy, chỉ còn các đơn vị QLVNCH để ngăn chặn đường xâm nhập người và vũ khí của địch quân, và cũng để bảo vệ thủy lộ Cửu Long để việc tiếp tế cho đồng minh Cam Bốt không bị ngưng trệ.
Cộng quân mở đầu chiến dịch bằng cách phong tỏa, tạo áp lực nặng nề mong đánh chiếm quận Hồng Ngự, một thị trấn nhỏ nằm ngay trên cửa rạch Hồng Ngự đổ vào sông Cửu Long. Như trên đã nói, nếu chiếm được Hồng Ngự, không những chúng sẽ khóa chặt được yết hầu của thủy lộ Cửu Long từ Việt Nam sang Cam Bốt, mà đồng thời cũng mở rộng được địa bàn hoạt động và cánh cửa xâm nhập từ Cam Bốt vào khu vực Đồng Tháp Mười khiến Quốc Lộ 4 từ Hậu Giang về thủ đô Sài Gòn cũng bị đe dọa.
Vào tháng 3 năm 1973, Cộng quân tập trung một lực lượng đông đảo lên tới cấp Sư Đoàn để tiến chiếm mục tiêu Hồng Ngự. Bộ chỉ huy chiến dịch của Cộng quân đóng tại khu vực Hậu Cần 704 thuộc tỉnh Prey Veng bên Cam Bốt, giáp ranh tỉnh Kiến Phong. Các đơn vị Cộng quân gồm Trung Đoàn 207 thuộc Công Trường 6, Trung Đoàn 174 thuộc Công Trường 5, Trung Đoàn 272 thuộc Công Trường 9 (theo tin tình báo, thành phần còn lại của Công Trường 9 vẫn còn lẩn quẩn tại khu vực rừng cao su Michelin (Dầu Tiếng) thuộc Quân Khu III) và một đơn vị pháo thuộc Trung Đoàn Pháo 75. So sánh lực lượng đôi bên, Cộng quân hoàn toàn chiếm ưu thế, vừa đông quân, vừa di động, lại có pháo tầm xa hạng nặng yểm trợ. Lực lượng phòng thủ quận Hồng Ngự nhỏ bé không có Chủ Lực Quân, chỉ có Địa Phương Quân, Nghĩa Quân cơ hữu và một số giang đĩnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong tăng phái phòng thủ. Ngoài ra, với những đồn bót cố định phòng thủ sơ sài, các đơn vị cơ hữu của Chi Khu Hồng Ngự là mục tiêu rõ ràng và mồi ngon cho đạn pháo binh Việt Cộng. Chỉ có những giang đĩnh Hải Quân tăng phái với khả năng di động và hỏa lực mạnh trấn giữ mặt sông mới có khả năng chống trả và làm khó dễ được địch quân.
Trung Đoàn 207 của Cộng quân được xử dụng làm nỗ lực xung kích chính vượt biên giới đánh thẳng vào Hồng Ngự. Lợi dụng yếu tố bất ngờ và hỏa lực mạnh, địch quân dùng chiến thuật Tiền Pháo Hậu Xung và Biển Người tràn ngập một số đồn bót hẻo lánh gần biên giới hay dọc theo kinh rạch do Địa Phương Quân và Nghĩa Quân thuộc Chi Khu Hồng Ngự trấn đóng. Đa số những đồn bót khác nằm sâu hơn trong lãnh thổ Việt Nam tuy chưa bị đánh chiếm nhưng cũng bị Cộng quân bao vây, cô lập và uy hiếp nặng nề khiến việc tăng viện hay tiếp tế hầu như không thể thực hiện nổi.
Tuy bị lực lượng địch quân có hỏa lực mạnh và đông hơn gấp bội tấn công bất ngờ, các chiến sĩ Địa Phương Quân và Nghĩa Quân cơ hữu thuộc Chi Khu Hồng Ngự lợi dụng địa hình quen thuộc đã chống trả hữu hiệu, tạm thời chặn được bước tiến của địch quân vào quận lỵ. Nhưng trước lực lượng đông đảo của quân chính qui Bắc Việt, phía VNCH chỉ có những đơn vị cơ hữu của Chi Khu chống giữ nên tình hình rất khẩn trương, quận Hồng Ngự có thể bị mất bất cứ lúc nào. Càng ngày, vòng vây của Cộng quân càng xiết chặt. Chúng bắn hàng trăm hỏa tiễn 122 ly vào quận lỵ gây thiệt hại nặng nề về nhân mạng cũng như tài sản của dân chúng. Quận Trưởng Hồng Ngự là Thiếu Tá Thái Lê Trương, một sĩ quan trẻ, xuất sắc trước đây thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh, tuy đã anh dũng điều động các đơn vị trực thuộc chống trả, nhưng trước tình trạng tuyệt vọng, đã liên tiếp yêu cầu Tiểu Khu Kiến Phong xin Chủ Lực Quân tăng viện khẩn cấp.
Trong lúc đó, về phía Hoa Kỳ, các Pháo Đài Bay B-52 và các phi cơ chiến lược liên tiếp dội bom vào các vị trí Cộng quân dọc theo bờ Đông sông Cửu Long từ biên giới Miên - Việt tới Nam Vang để ngăn chặn địch phong tỏa thủy lộ. Những trận dội bom nay đã gây thiệt hại khá nặng cho lực lượng Cộng quân trên đường đánh chiếm Hồng Ngự khiến đà tiến của chúng bị chậm lại phần nào. Đặc biệt, trong cuộc oanh tạc của Pháo Đài Bay B-52 vào ngày 20 tháng 3, Cộng quân phải bắt dân dùng xe bò chở đi hàng trăm xác chết và mùi tử khí vẫn còn nồng nặc cả tuần sau đó.
Trong khi chờ đợi quân bộ chiến tới tăng viện, Tiểu Khu Kiến Phong yêu cầu Hải Quân tiếp ứng để ngăn chận Cộng quân tràn qua sông Cửu Long cũng nhu Rạch Hồng Ngự đánh chiếm quận lỵ. Nhưng lực lượng Hải Quân thuộc Vùng IV Sông Ngòi lúc đó chỉ có Giang Đoàn 31 Xung Phong đã tăng phái chi Tiểu Khu Kiến Phong, lại đang bận hành quân tại vùng Đồng Tháp Mười giáp ranh tỉnh Định Tường nên không giúp đỡ gì được. Vì vậy, một phân đội giang đĩnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong đang hoạt động với Chi Khu Tân Châu thuộc tỉnh An Giang liền được điều động đến tăng viện chi Chi Khu Hồng Ngự. Tuy chỉ có một số giang đĩnh nhưng phân đội này đã ngày đêm tuần tiễu, phục kích, bắn chìm nhiều xuồng chở quân của địch mưu toan di chuyển từ bờ Đông sông Cửu Long sang cù lao Long Khánh. Vì vậy, áp lực của Cộng quân tương đối giảm vì một gọng kìm tấn công của địch quân đã bị Hải Quân bẻ gẫy.
Nhưng những cuộc dội bom của Không Quân Hoa Kỳ cộng thêm sự yểm trợ ban đầu tại các vùng ven sông rất đắc lực của Hải Quân cũng chỉ có thể giúp các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tạm thời cầm cự. Viện quân của địch tự do tràn qua vùng biên giới bỏ ngỏ mỗi ngày một tiến gần mục tiêu từ hướng sâu trong nội địa khiến tình hình lại thêm khẩn trương. Một lần nữa, Thiếu tá Trương lại hối thúc Tiểu Khu Kiến Phong xin tăng viện gấp.
VI. Giang Đoàn 26 Xung Phong Tham Chiến
(Xem Phóng Đồ Hành Quân)
Trước tình thế mỗi lúc mỗi nguy ngập một mất một còn của Chi Khu Hồng Ngự, Tiểu Khu Kiến Phong vội liên lạc với Quân Đoàn IV tại Cần Thơ để cầu cứu. Nhưng lúc đó, các đơn vị bộ binh thuộc Sư Đoàn 9 là đại đơn vị chủ lực chịu trách nhiệm lãnh thổ Tiểu Khu Kiến Phong đang bận tham chiến tại các mặt trận khác nên không thể nào tiếp viện kịp thời. Một lần nữa, Hải Quân lại đảm đang trọng trách. Theo yêu cầu khẩn cấp của Quân Đoàn IV, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi do Hải Quân Đại Tá Vũ Đình Đào (sau này được vinh thăng Phó Đề Đốc) chỉ huy, liền tức tốc ra lệnh Giang Đoàn 26 Xung Phong rút tất cả các giang đĩnh đang tăng phái ở các nơi khác về tập trung tại hậu cứ Long Xuyên chờ lệnh. Sau đó, toàn bộ Giang Đoàn do Hải Quân Thiếu Tá Trần Đỗ Cẩm chỉ huy liền được điều động lên chiến trường Hồng Ngự, cùng với toán giang đĩnh đang hoạt động tại đó để tăng cường lực lượng phòng thủ Chi Khu Hồng Ngự.
Ngay khi tới vùng hành quân, các giang đĩnh của Giang Đoàn 26 Xung Phong đã phải trực tiếp đương đầu với hỏa lực nặng nề của Cộng quân từ hai bờ sông chờ sẵn. Đoán biết trước các giang đĩnh Hải Quân là lực lượng tăng viện duy nhất, địch quân đào sẵn các hầm hố, công sự kiên cố bố trí súng nặng bên bờ sông để ngăn chận. Rất may, khúc sông Cửu Long quanh Hồng Ngự khá rộng nên chúng không gây được thiệt hại nào đáng kể. Theo kế hoạch phòng thủ hoạch định với Chi Khu, các giang đĩnh được xử dụng như những đồn bót di động dàn dọc theo bờ sông như bức tường thành để ngày đêm bắn chặn, không cho địch quân di chuyển qua sông. Ngoài nhiệm vụ chặn địch, những giang đĩnh này còn đảm trách việc yểm trợ hỏa lực cũng như tản thương và tiếp tế cho các đồn bót ven sông đã bị địch vây hãm từ lâu.
Với sự chiến đấu quả cảm của các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân cơ hữu thuộc Chi Khu Hồng Ngự, cộng với các giang đĩnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong ngày đêm tuần tiễu và yểm trợ rất hữu hiệu, Cộng quân tạm thời bị chận đứng. Mũi dùi quan trọng của địch quân toan đánh bọc vào sườn phía Tây của Chi Khu Hồng Ngự bị Hải Quân bẻ gẫy vì chúng không thể vượt qua sông, do đó địch chưa thể chiếm được quận lỵ. Tuy mặt Tây đã có Hải Quân trấn giữ nên tạm thời ổn định, nhưng tình hình tại mặt Bắc lại trở nên vô cùng nguy ngập vì địch quân đã tiến sát bờ rạch Hồng Ngự, chì còn cách Chi Khu vài ba cây số. Hàng ngày, Cộng quân dùng đủ mọi loại vũ khí, kể cả súng bắn thẳng pháo kích vào Hồng Ngự. Các giang đĩnh án ngữ trên mặt sông để chặn địch cũng bị nhắm bắn dữ dội.
VII. Lực Lượng VNCH Tăng Viện
Mãi tới khoảng trung tuần tháng 4 năm 1973, Sư Đoàn 9 Bộ Binh mới tương đối rảnh tay ở những mặt trận khác nên điều động Trung Đoàn 15 Bộ Binh và Chi Đoàn 2 Thiết Quân Vận tới tăng viện. Sư Đoàn 9 Bộ Binh lúc đó do Chuẩn Tướng Trần Bá Di chỉ huy, còn Trung Đoàn 15 Bộ Binh do Đại tá Hồ Ngọc Cẩn làm Trung Đoàn Trưởng. Vào cuối tháng 4 năm 1975, Đại Tá Cẩn là Tỉnh Trưởng Chương Thiện, đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Ông bị Việt Cộng bắt đưa về xử tử tại sân vận động Cần Thơ.
Về phía Hải Quân, một Liên Đoàn Đặc Nhiệm do Hải Quân Thiếu Tá Trần Ngọc Bích xuất thân khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang chỉ huy cũng được gấp rút thành lập để phối hợp chặt chẽ với lực lượng Bộ Binh tại chiến trường Hồng Ngự. Liên Đoàn này được đặt dưới sự điều động của Lực Lượng Đặc Nhiệm 212 tức là Lực Lượng Tuần Thám do Hải Quân Đại Tá Nghiêm Văn Phú làm đơn vị trưởng. Liên Đoàn Đặc Nhiệm Hải Quân gồm có các đơn vị sau đây:
1. Giang Đoàn 26 Xung Phong do Hải Quân Thiếu Tá Trần Đỗ Cẩm chỉ huy. Đơn vị này đã tham chiến từ trước.
2. Một phân đội Giang Tốc Đĩnh (PBR - Patrol Boat River) thuộc Giang Đoàn 58 Tuần Thám do Thiếu Tá Trần Thanh Khải chỉ huy. Thành phần còn lại của Giang Đoàn này đang tăng cường mặt trận Phước Xuyên và Tuyên Nhơn trong vùng Đồng Tháp Mười. Hậu cứ của Giang Đoàn 58 Tuần Thám đặt tại Tân Châu.
3. Cơ Xưởng Hạm 9613 do Đại Úy Cơ Khí Nguyễn Duy Tuệ chỉ huy. Đây không phải là một chiến hạm có máy để tự vận chuyển mà chỉ là một cơ xưởng sửa chữa và tiếp vận nổi neo tại An Long ngay vàm kinh Đồng Tiến. Cơ Xưởng Hạm này được dùng làm trạm sửa chữa và tiếp vận tiền phương cho các giang đĩnh và cũng là nơi đặt Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn Đặc Nhiệm.
4. Tiền Doanh Yểm Trợ Chợ Mới là căn cứ tiếp vận chính, đồn trú tại Chợ Mới thuộc tỉnh Long Xuyên do Hải Quân Thiếu tá Phạm Văn Tiêu xuất thân khóa 7 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang chỉ huy.
5. Giang Pháo Hạm 328 do Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Như Phú làm hạm trưởng. Thiếu Tá Phú xuất thân khóa 16 Trường Võ Bị Đà Lạt, nhưng chọn quân chủng Hải Quân sau khi tốt nghiệp nên tiếp tục theo học khóa 13 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Chiến hạm này do Bộ Tư Lệnh Hạm Đội tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi.
Trong số các đơn vị Hải Quân kể trên, Giang Đoàn 26 Xung Phong được coi là thành phần chủ lực gồm toàn bộ 19 giang đĩnh đủ loại tham chiến, với đầy đủ khả năng hành quân thủy bộ, yểm trợ hải pháo, chuyển vận, tuần tiễu, án ngữ cũng như tiếp tế. Các giang đĩnh PBR có vận tốc cao, vận chuyển lẹ làng thường được xử dụng trong các cuộc tuần thám và phục kích ban đêm. Chiến hạm tăng phái với các loại đại bác 76 ly và 40 ly đảm trách nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị hành quân.
Ngay khi lực lượng tăng viện tới vùng hoạt động, các đơn vị trưởng lập tức bàn thảo kế hoạch giải tỏa áp lực địch trong vùng và nhất là quét sạch địch quân bố trí tại bờ Đông sông Cửu Long từ Hồng Ngự lên tới biên giới Miên - Việt. Lúc này, tuy lực lượng địch còn rất mạnh vì chúng chiếm giữ khu vực ven sông ngay phía bắc Chi Khu, nhưng cán cân lực lượng đôi bên không còn chênh lệch nhiều như trước. Hơn nữa, các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân cơ hữu được tăng viện và yểm trợ hữu hiệu nên lên tinh thần, chiến đấu rất hăng hái.
VIII. Các Trận Đánh Quan Trọng
Liên tiếp trong khoảng thời gian chừng hai tháng (từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1973), các giang đĩnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong đã tích cực đóng góp vào nỗ lực bảo vệ quân Hồng Ngự chống lại áp lực của Trung Đoàn 207 Cộng quân. Ngoài nhiện vụ tuần tiễu thường xuyên để ngăn chận địch quân xâm nhập bằng đường sông cũng như phối hợp, yểm trợ Trung Đoàn 15 Bộ Binh và Địa Phương Quân, Nghĩa Quân thuộc Chi Khu Hồng Ngự, Giang Đoàn 26 Xung Phong còn trực tiếp tham dự vào nhiều trận đánh lớn quan trọng.
1. Trận Đánh Tại Rạch Hồng Ngự
Ngay khi Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh vừa đến vùng Hồng Ngự, Thiếu Tá Thái Lê Trương, Chi Khu Trưởng đã yêu cầu các đơn vị Bộ Binh và Hải Quân tăng phái tìm mọi cách đẩy lui địch khỏi bờ Bắc rạch Hồng Ngự. Lý do vì tuy Cộng quân tuy không vượt được con rạch để đánh chiếm Chi Khu, nhưng chúng vẫn hàng ngày pháo kích vào quân Hồng Ngự, gây thiệt hại nặng nề cho dân chúng. Rạch Hồng Ngự ăn thông với rạch Cái Cái chạy tới biên giới Việt - Miên, rộng chừng 100 thước, từ trước tới nay vẫn là "giới tuyến" của đôi bên. Cộng quân tuy chiếm giữ được mặt Bắc nhưng không thể vượt qua con rạch vì bị các giang đĩnh Hải Quân chận đứng. Trong khi đó, lực lượng phòng thủ tuy giữ được mặt Nam nhưng lại không có đủ lực lượng đổ bộ để đẩy lui địch quân. Vùng chợ Hồng Ngự nằm ở mặt Nam tuy chỉ cách Chi Khu chừng một cây số, nhiều khi đã được coi như vùng "sôi đậu" vì địch quân xâm nhập.
Sau khi phối hợp với Trung Đoàn 15 BB và Chi Khu theo kế hoạch hành quân, Giang Đoàn 26 Xung Phong lãnh nhiệm vụ dùng 4 LCM-6 chở một Tiểu Đoàn Bộ Binh sang sông bằng hai đợt. Khi nhiệm vụ chuyển quân hoàn tất, các giang đĩnh sẽ tuần tiễu, án ngữ và yểm trợ cho lực lượng Bộ Binh càn quét bờ Bắc. Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 Xung Phong chịu trách nhiệm chỉ huy cuộc hành quân đổ bộ, Tiểu Đoàn Trưởng Bộ Binh có nhiệm vụ chỉ huy cánh quân sau khi đổ bộ để tiêu diệt địch quân trong vùng mục tiêu chỉ định.
Để các giang đĩnh chở quân ủi bãi dễ dàng, Giang Đoàn 26 Xung Phong chọn giờ đổ quân vào lúc hừng sáng khi mực thủy triều cao nhất để bộ binh có thể lên bờ không bị trở ngại và tràn vào mục tiêu cùng một lúc. Hơn nữa, việc nhận quân vào lúc ban đêm tại bãi ủi ngoài bờ sông Cửu Long nằm về phía Nam Chi Khu Hồng Ngự cũng có thể tránh địch pháo kích và khiến chúng không thể quan sát hay đoán biết ý đồ hành quân.
Theo đúng kế hoạch, sau khi nhận quân, đoàn giang đĩnh di chuyển dọc theo bờ Đông sông Cửu Long, quẹo phải vào rạch Hồng Ngự đúng giờ dự trù. Tuy con rạch rộng chừng 100 thước, nhưng có rất nhiều hàng đáy của dân đánh cá nên phải di chuyển rất chậm và khó khăn. Một số giang đĩnh yểm trợ gồm LCVP và FOM đi trước dẫn đường, vào sâu trong rạch quá mục tiêu chừng ba cây số, gần một đồn Nghĩa Quân rồi tác xạ dữ dội quanh đồn như để yểm trợ hỏa lực để làm kế hoạch nghi binh. Các giang đĩnh chở quân theo sau vào điểm đổ quân đúng lúc hừng sáng. Chỉ trong vòng 15 phút, nửa Tiểu Đoàn Bộ Binh đã lên bờ, thiết lập đầu cầu an toàn. Nửa Tiểu Đoàn còn lại được các LCM-6 đưa thẳng từ bờ Nam qua. Trong lúc lực lượng Bộ Binh chia thành nhiều mũi tiến chiếm các mục tiêu được chỉ định trước, các giang đĩnh Hải Quân di chuyển qua bờ Nam ủi bãi rải rác để sẵn sàng yểm trợ cho cánh quân đổ bộ khi cần.
Khi trời vừa sáng rõ, Cộng quân từ các công sự phòng thủ kiên cố tuy bị bất ngờ nhưng cũng chống trả dữ dội. Từng loạt thượng liên và AK bắn xối xả vào các chiến sĩ Bộ Binh đang lăn xả vào mục tiêu. Nhưng địch phản ứng quá trễ, các chiến sĩ Trung Đoàn 15 đã tiến đến quá gần, từng trái lựu đạn, từng loạt đạn M-79 thẩy vào hầm hố của chúng khiến nhiều tên bị tan thây tại chỗ. Trận đánh chớp nhoáng kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ, nguyên một Tiểu Đoàn Cộng quân coi như bị diệt gọn. Tuy nhiên, còn một vị trí súng cối 82 ly được một tổ thượng liên và một toán B-40 yểm trợ vẫn còn hoạt động. Cả ba ổ súng này bố trí theo hìng tam giác, liên hoàn yểm trợ lẫn nhau gây trở ngại không ít cho các chiến sĩ Bộ Binh, sau nhiều đợt xung phong bị thiệt hại khá nặng nhưng vẫn không sao tiêu diệt được.
Tại bờ rạch phía Nam, trên giang đĩnh chỉ huy nơi đặt Bộ Chỉ Huy hành quân thủy bộ gồm Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 Xung Phong và Tiểu Đoàn Trưởng Bộ Binh, mọi người đều nhìn thấy rõ ràng toán Bộ Binh bò sát đất lẻn vào gần vị trí của Cộng quân, nhưng các ổ súng của chúng đều được chôn dấu kỹ trong các công sự đằp bằng đất rất dầy nên lựu đạn và M-79 không phá tan được. Vì vậy, sau nhiều đợt xung phong không những vô hiệu quả, còn có một số binh thương vong. Vị Tiểu Đoàn Trưởng Bộ Binh nôn nóng ra lệnh cho binh sĩ tìm đủ mọi cách tấn công tiếp, nhưng vẫn bị chận lại, còn thêm một số binh sĩ vừa chết vừa bị thương kẹt dưới lằn đạn của đối phương. Để tránh thiệt hại thêm cho lực lượng bạn, Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 Xung Phong đề nghị dùng súng cối 81 ly cơ hữu trên giang đĩnh liên tiếp bắn phủ đầu vào mục tiêu để địch khó ngóc đầu lên quan sát, đồng thời cho Thiết Giáp Đĩnh "Monitor Combat" với đại bác 40 trực xạ sẽ bất thần tiến sang bên kia sông, chỉ các mục tiêu chừng 300 thước, dùng đại bác 40 ly bắn thẳng vào các ụ đất để san phẳng các ổ súng địch. Tuy nhiên, việc xử dụng hỏa lực Hải Quân bắn thẳng này có thể gây thiệt hại cho số bộ binh đang nằm kẹt giữa mục tiêu và lằn đạn Hải Quân.
Tuy kế hoạch hơi nguy hiểm, nhưng vì không còn lựa chọn nào khác nên được đồng ý và thi hành ngay. Chiếc giang đĩnh chỉ huy rời bãi ủi tiến ra giữa lòng rạch, vừa chạy thật chậm, vừa tác xạ súng cối. Chiếc Thiết Giáp Đĩnh cũng lập tức tiến sang bờ rạch bên kia, pháo tháp 40 điều chỉnh nhắm thẳng vào mục tiêu trong khi khẩu đại liên 50 gắn chung trong pháo tháp khạc đạn liên hồi để mở đường. Khi đã ủi bãi vào vị trí thuận tiện, khẩu 40 ly lập tức bắn từng loạt đạn vào các ụ đất đặt súng của địch quân. Vì khoảng cách không xa, vị trí của giang đĩnh lại cố định nên việc tác xạ rất chính xác và hiệu quả. Mỗi viên đạn bắn trúng mục tiêu lại thổi bay đi một mảng đất lớn. Sau chừng 50 viên đạn, Cộng quân dường như đoán được ý định của lực lượng tấn công nên chuyển xạ, quay súng nhắm vào các giang đĩnh bắn trả dữ dội. Các ổ thượng liên và B-40 nhắm vào chiếc Thiết Giáp Đĩnh, trong lúc hàng loạt đạn súng cối bắn ra ngoài rạch nhắm vào các giang đĩnh đang tuần tiễu. Tuy là những mục tiêu lớn và trống trải dưới hỏa lực của Cộng quân, nhưng các giang đĩnh vẫn bám sát khu vực hành quân. Nhiều quả đạn súng cối rơi sát giang đĩnh chỉ huy khiến một số thủy thủ và bộ binh trên giang đĩnh bị thương vì trúng mảnh đạn. Nhưng địch đã không còn đường thoát. Chỉ trong khoảnh khắc, các quả đạn 40 ly liên tiếp bắn trúng mục tiêu đã san bằng những vị trí đặt súng cố thủ cuối cùng của chúng. Khi tiếng súng địch im hẳn trên chiến trường, toán bộ binh trên bờ lập tức tiến vào lục soát các mục tiêu vừa bị Hải Quân bắn phá. Kết quả họ tịch thu được 1 khẩu súng cối 82 ly, 1 thượng liên, 2 khẩu B-40 và 7 khẩu AK.
Sau khi hoàn tất công tác, Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng Bộ Binh bắt tay cám ơn Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 Xung Phong đã giúp ông thanh toán mục tiêu mà không bị thiệt hại thêm. Đúng lúc này, vị sĩ quan Bộ Binh mới nhìn thấy ống quần bên trái của vị sĩ quan Hải Quân bị thủng nhiều lỗ khá lớn và máu tràn ra từ chiếc giầy trận bên chân trái. Thì ra trong lúc say mùi khói súng đứng trên sàn giang đĩnh chỉ huy tác chiến, Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 Xung Phong đã bị trúng mảnh đạn súng cối địch gần xương ống chân trái nhưng không hề hay biết! Mảnh đạn này nằm sâu trong bắp chân cho đến ngày nay, vì gần các gân chính nên bác sĩ khuyên không nên giải phẫu, cứ để như vậy. Đây là lần thứ nhì ông bị thương trong đời quân ngũ (lần trước tại vùng kinh Mang Thít gần vàm Quới An, khi làm Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 31 Xung Phong tại Vĩnh Long).
Kết quả trong trận đánh quan trọng này, địch quân bị đẩy lui khỏi bờ Bắc rạch Hồng Ngự, áp lực của chúng coi như không còn đáng kể. Phía Bộ Binh bị thiệt hại trung bình. Phía Hải Quân, nhiều giang đĩnh bị trúng đạn địch quân nhưng không có chiếc nào bị chìm hay bất khiển dụng. Về nhân sự chỉ có 5 người bị thương, 1 nặng, 4 trung bình. Khi nhận được công điện báo cáo kết qủa hành quân, thượng cấp chỉ thị Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 Xung Phong dù đã bị thương, nhưng không nặng lắm nên vẫn tiếp tục ở lại vùng hành quân, không tản thương cho đến khi có lệnh mới.
2. Trận Đánh Tại Thường Phước
Bị đánh bật ra khỏi khu vực Hồng Ngự, Cộng quân tuy bị thiệt hại khá nặng nhưng chúng vẫn lì lợm cố bám chặt khu Thường Phước nằm trên bờ Đông sông Cửu Long, đối diện Tân Châu đến biên giới. Tuy không chiếm được Hồng Ngự để khống chế thủy lộ sông Cửu Long, nhưng địch vẫn còn đủ lực lượng phong tỏa bờ Đông để ngăn chận các thương thuyền từ Việt Nam lên tiếp tế Nam Vang.
Khúc sông ngay trước mặt quân Tân Châu là nơi thương thuyền tập trung để quan thuế kiểm soát và chuẩn bị trước khi ngược dòng Cửu Long. Đây là điểm neo thứ nhì trên đường đi Nam Vang, sau điểm neo gần Bắc Mỹ Thuận tại khu vực Ngã Ba Đèn Đỏ. Nếu Cộng quân còn kiểm soát dược vùng Thường Phước đối diện, không những các thương thuyền tại điểm neo bị đe dọa, mà ngay cả quận Tân Châu thuộc tỉnh An Giang cũng nằm trong tầm pháo kích của chúng.
Về địa thế, Thường Phước là một vùng đất bằng với nhiều cánh đồng trống trải kéo dài tới tận bờ sông đối diện Tân Châu. Bờ sông Cửu Long tại vùng này là phía đất bồi, trong khi Tân Châu là bờ đất lở. Dân cư tại đây rất thưa thớt, đa số sống về nghề ruộng rẫy.
Khi cánh quân của Trung Đoàn 15 Bộ Binh có Hải Quân yểm trợ từ Hồng Ngự đánh dần lên hướng Tây Bắc, Cộng quân yếu thế lùi dần về vùng biên giới Việt - Miên. Tuy địch rất muốn vượt sông Cửu Long để đánh chiếm Tân Châu, nhưng chúng không thực hiện được ý đồ này vì khúc sông này bị các giang đĩnh thuộc Liên Đoàn Đặc Nhiệm Hải Quân phong tỏa.
Vào koảng cuối tháng 4-1973, Cộng quân thu thập tàn quân chừng một Tiểu Đoàn đóng chốt tại các vị trí ven sông vùng Thường Phước nhằm uy hiếp các thương thuyền đang từ Vũng Tàu di chuyển tới. Để giải tỏa áp lực địch, Bộ Chỉ Huy Hành Quân hỗn hợp Bộ Binh và Hải Quân đặt tại Chi Khu Hồng Ngự liền soạn thảo một kế hoạch hành quân theo thế "Trên Đe Dưới Búa" đánh vào vùng Thường Phước. Theo kế hoạch này, Trung Đoàn 15 Bộ Binh có nhiệm vụ đánh bọc hậu để dồn địch ra gần bờ sông, sau đó sẽ án binh tại chỗ để làm nút chặn. Phần Hải Quân sẽ dùng hỏa lức cơ hữu từ các giang đĩnh để tiêu diệt toán Cộng quân này.
Cuộc hành quân diễn tiến đúng theo kế hoạch dự trù. Nhiều toán Cộng quân bị các chiến sĩ Trung Đoàng 15 Bộ Binh lùa từ phía sau lưng, phải lui dần ra bờ sông. Bờ sông Cửu Long tại Miền Nam thường một bên cao một bên thấp, bên lở bên bồi không đồng đều nhau. Nếu bờ sông nằm giữa luồng nước, đất sẽ bị nước xoi mòn và lở dần. Ngược lại, bờ sông phía đối diện sẽ được đất bồi thêm thành những bãi sông hay cù lao. Thí dụ như vùng bờ sông Sa Đéc là khu đất lở khiến nhiều nhà cửa bị đổ sụp xuống sộng, trong khi bờ sông bên kia thuộc tỉnh Kiến Phong là vùng đất bồi với nhiều cù lao trù phú. Tân Châu thuộc vùng đất lở nên bờ sông rất cao, còn bờ sông Thường Phước đối diện thuộc khu đất bồi nên bờ sông thấp với những bãi cát chạy lài tới mé sông. Từ bờ sông cao phía Tân Châu, dân chúng có thể dùng mắt thường trông thấy bóng Cộng quân mặc quần áo kaki vàng ẩn hiện trong những ruộng rẫy bên bờ sông đối diện. Các giang đĩnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong xử dụng đại bác và đại liên bắn thẳng vào đám Cộng quân chưa kịp tìm chỗ trú ẩn. Đặc biệt, hai giang đĩnh Monitor cập vào những chiếc xáng vét đất neo giữa dòng sông, dùng súng cối 81 ly và đại bác 40 ly liên tục nã đạn vào địch quân.
Trận đánh xảy ra giữa ban ngày, vào khoảng 3 giờ chiều. Dân chúng Tân Châu đứng chật ven bờ sông chứng kiến tận mắt. Dọc theo mé sông Tân Châu có một tòa nhà trắng rất lớn xây bằng bê tông, cao 5 tầng. Nghe nói đây là trụ sở của Ty Quan Thuế thời Pháp thuộc. Từ lan can của toà nhà này, dân chúng theo dõi, vỗ tay reo hò vang dội mỗi khi súng Hải Quân bắn trúng nơi Cộng quân ẩn ẩn trốn phía bên kia sông. Trên những chiếc xáng, nơi hai giang đĩnh chủ lực của Giang Đoàn 26 Xung Phong đang cột tạm để lấy hướng tác xạ cho chính xác, nhiều nhân viên tự động đem nước ngọt, bia, cơm ra mời những chiến sĩ Hải Quân đang bận rộn bắn vào đầu địch! Có lẽ đây là lần đầu tiên trong hải nghiệp, các chiến sĩ áo trắng thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong vừa uống ... bia, vừa giáng những đòn chí tử vào địch quân đang thất thế chơ vơ giữa đồng trống!
Sau trận đánh hiếm có này, một số tù binh cho biết họ thuộc Trung Đoàn 207 và Tiểu Đoàn Cộng quân bị gài vào thế gọng kìm chỉ còn chừng 100 tên sông sót chạt thoát về phía biên giới. Về phía Bộ Binh và Hải Quân chỉ bị thiệt hại không đáng kể.
Trận đánh tại Thường Phước chấm dứt với sự thảm bại của Cộng quân. Địch bị đẩy xa khỏi vùng Hồng Ngự - Tân Châu về phía biên giới. Áp lực của chúng vào điểm neo thương thuyền tại Tân Châu cũng chấm dứt từ đó.
3. Hộ Tống Thương Thuyền Đi Nam Vang Lần Thứ Nhất: Chạm Trán Với Hỏa Tiển AT-3 Của Cộng Quân
Cũng khoảng trong thời gian đó, tình hình chiến sự tại quốc gia láng giềng Cam Bốt trở nên vô cùng sôi động với phần thắng lợi nghiêng về phía Cộng quân. Tuy vào năm 1970, liên quân Việt - Mỹ đã mở một cuộc hành quân vượt biên qui mô đánh qua Cam Bốt để tiêu diệt các cơ sở hậu cần và lực lượng Cộng quân, nhưng áp lực của chúng đè nặng trên thủ đô Nam Vang vẫn không giảm. Cộng quân, gồm quân Khmer Đỏ do Pol Pot cầm đầu và đa số là bộ đội Cộng Sản Bắc Việt đã chiếm giữ hầu hết lãnh thổ Cam Bốt, ngoại trừ những thành phố lớn như Nam Vang, Takeo, Konpong Cham, hải cảng Sihanoukville còn được gọi là Kompong Som v.v... Ngoài ra, các trục đường bộ chính dùng để tiếp tế cho thủ đô Nam Vang cũng bị địch quân cắt đứt.
Do đó, để tiếp tế quân nhu cũng như nhu yếu phẩm như gạo, nhiên liệu v.v.. cho chính phủ thân Mỹ Lon Nol, chỉ còn hai con đường chính: một là không vận qua phi trường Pochen Tong nằm sát thủ đô Nam Vang, hai là bằng thủy lộ sông Cửu Long chạy dài từ Vũng Tàu thuộc Việt Nam lên tới Nam vang. Thủy lộ này dài chừng 350 cây số với trên 200 cây số nằm trên lãnh thổ Việt Nam từ Vũng Tàu Tới Tân Châu và khoảng chừng 150 cây số từ Tân Châu qua bến phà Neak Luoeng tới Nam Vang. Trên đường đi tới Nam Vang, đoàn tàu phải vượt qua một địa điểm chiến lược rất quan trọng, đó là bến phà Neak Luoeng thuộc tỉnh Banam, nằm vào khoảng giữa đường từ Tân Châu đến Nam Vang. Neak Luoeng lúc đó là một căn cứ hải quân quan trọng của Cam Bốt, vẫn còn nằm trong tay chính phủ Lon Nol, mặc dầu bị Cộng quân bao vây ngặt nghèo.
Mỗi đoàn tầu tiếp tế cho Nam Vang thường gồm khoảng 15 đến 20 chiếc mang hiệu kỳ nước ngoài. Chừng phân nửa trong số đó những thương thuyền chở hàng nhập cảng thông dụng như rượu, thuốc lá, đồ hộp v.v... Phân nửa đoàn tầu còn lại gồm những tầu dầu và xà lan chở gạo hay đạn dược. Những xà lan nàt đều lấy hàng tại bến tân cảng ngay sát thủ đô Sài Gòn. Đây là những quân nhu và nhu yếu phẩm do Hoa Kỳ "viện trợ" cho chính quyền Lon Nol để chống lại bọn, Cộng Sản. Những xà lan đều không có máy nên phải dùng tầu dòng để kéo hay đẩy. Tầu dòng tuy nhỏ nhưng máy rất mạnh, có thể kéo hay đẩy thương thuyền trọng tải hàng chục nhàn tấn rất dễ đàng. Tuy nhiên, nếu phải kéo nhiều xà lan trong sông với mỗi sợi giây dòng tầu dài vài, ba trăm thước, đoàn xà lan sẽ rất dài, khó cho tầu dòng vận chuyển tại các khúc quanh hẹp.
Tưởng cũng nên nói thêm, sau này, vào khoảng đầu năm 1975, các tầu dòng kéo xà lan đạn lên Nam Vang đều thuộc hãng tầu Sea Pac nằm bên Khánh Hội. Đây là một chi nhánh của hãng tầu Alaska Barge trụ sở đặt tại Seattle, tiểu bang Washington. Hãng Alska Barge chuyên dùng tầu dòng để kéo xà lan chở dụng cụ khoan dầu lửa lên vùng Bắc Hải thuộc Alaska. Chính phủ Hoa Kỳ ký giao kèo với hãng này để mướn chở đạn và nhiên liệu lên Cam Bốt. Tuy là một hãng tư nhưng chi nhánh Sea Pac của hãng Alaska Barge làm việc thẳng với cơ quan tình báo CIA của Hao Kỳ, tương tự như hãng máy bay tư Air America vậy. Thuyền trưởng của những tầu dòng Sea Pac sau này đa số là những cựu sĩ quan Hải Quân VNCH cấp tá. Đại diện của hãng Sea Pac tại Sài Gòn là một người quốc tịch Mỹ tên Vladimir Solomon, với một phụ tá người Việt tên Vân.
Như trên đã nói, vì bị phong tỏa ngặt nghèo nên Cam Bốt hầu như chỉ còn trông cậy vào thủy lộ sông Cửu Long để sống còn. Phi trường Pochengton tuy vẫn còn hoạt động, nhưng vì bị Cộng quân bao vây, lại nằm trong tầm pháo kích nên máy bay lên xuống rất khó khăn. Vả lại, phi cơ không chở được nhiều hàng hóa như tầu biển hoặc xà lan nên việc tiếp tế bằng đường hàng không vừa nguy hiểm, vừa kém hữu hiệu. Cộng quân cũng biết rõ nhược điểm này nên cố bóp chết thủ đô Nam vang bằng cách đánh chiếm Hồng Ngự, được coi nhu yết hầu của thủy lộ sông Cửu Long từ Vũng Tàu lên Nam Vang.
Tuy nhiên, Cộng quân chỉ thu đạt được vài thành công nhỏ lúc ban đầu nhờ xử dụng một lực lượng chủ lực quân lớn cấp Trung Đoàn bất ngờ tràn qua biên giới áp đảo lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân khiêm nhường thuộc Chi Khu Hồng Ngự. Về sau, với sự yểm trợ đắc lực của các giang đĩnh Hải Quân và được Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh tăng cường, Cộng quân bị đẩy lui về phía biên giới Việt - Miên như trên đã mô tả.
Khoảng cuối tháng 4 năm 1973, một đoàn thương thuyền khoảng 20 chiếc, trong số này có 5 xà lan chở đầy đạn dược và chất nổ tới Tân Châu trên đường tiếp tế cho Nam Vang. Đoàn tầu bỏ neo ngay trước Căn Cứ Hải Quân Tân Châu cũng là hậu cứ của Giang Đoàn 58 Tuần Thám. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho đoàn thương thuyền tại điểm neo được trao phó cho các Giang Tốc Đĩnh (PBR - Patrol Boat River) của Giang Đoàn Tuần Thám vì các chiến đĩnh này có vận tốc cao, vận chuyển rất mau lẹ. Tuy tình hình vùng Hồng Ngự - Tân Châu đã tạm thời ổn định, nhưng bờ Đông của khúc sông từ Tân Châu lên tới biên giới dài khoảng 20 cây số vẫn do Cộng quân kiểm soát. Vì vậy, các Đơn Vị Trưởng thuộc Liên Đoàn Đặc Nhiệm Hải Quân nhóm họp tại Cơ Xưởng hạm HQ 9613 bỏ neo tại An Long, phía Nam Hồng Ngự để bàn kế hoạch hộ tống đoàn thương thuyền vượt qua biên giới. Chuyến hộ tống này sẽ rất gian nam, nguy hiểm vì số thương thuyền khá đông, địch lại biết rõ ta phải di chuyển qua thủy lộ duy nhất nên chắc chắn chúng đã đặt sẵn các ổ súng nặng chờ sẵn.
Bờ Đông sông Cửu Long đối diện Tân Châu tức là khu vực Thường Phước là vùng đất bồi nên bờ sông tương đối bằng phẳng và thấp nên địa thế không thuận tiện cho địch quân đặt những ổ phục kích. Tuy nhiên, khi vượt quá lên phía Bắc chừng 5 cây số, từ đồn Mương Kinh lên tới biên giới, bờ sông này lại trở thành khu đất lở với vách dựng đứng như một bức tường, mặt nước thấp hơn bờ sông chừng 10 thước. Do đó, các giang đĩnh tuy có hỏa lực mạnh, nhưng vì quá thấp nên vô hiệu đối với các ổ phục kích của Cộng quân đặt trong những hầm hố và địa đạo đào trên mặt bờ sông. Khi nước lớn (nước chảy ngược lại theo hướng Nam - Bắc, từ biển đổ vào sông), tầm súng của các giang đĩnh tuy tạm thời có thể bằn vào những mục tiêu trên bờ sông, nhưng những tầu kéo xà lan đạn lại rất khó vận chuyện khi bị dòng nước từ phía sau đẩy tới (nước xuôi). Vì sông hẹp nên các thương thuyền và xà lan phải đi theo đội hình hàng dọc, chiếc này nối đuôi chiếc kia, cách nhau chừng vài, ba trăm thước. Trong lúc di chuyển, điều tối quan trọng là các thương thuyền phải giữ đúng thứ tự và khoảng cách trong đội hình. Chỉ cần một thương thuyền di chuyển không đúng tốc độ trong đoàn, có thể những chiếc khác sẽ bị rối loạn, cả đoàn bị dồn lại hay đụng vào nhau. Ngoài ra, nếu bị tấn công trong lúc di chuyển, rất có thể các thủy thủ trên thương thuyền bị hoảng hốt vì không quen với súng đạn khiến đoàn tầu bị rối loạn hàng ngũ.
Biết được những trở ngại trên, Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn Đặc Nhiệm Hải Quân quyết định cho đoàn thương thuyền di chuyển ngay vào lúc con nước lớn vừa đứng và bắt đầu ròng. Căn cứ vào lịch thủy triều của Hải Quân, giờ thuận tiện nhất là lúc 9 giờ sáng. Chiến thuật hộ tống được hoạch định như sau:
- Đoàn thương thuyền di chuyển theo đội hình hàng dọc như thường lệ, mỗi chiếc cách nhau chừng 200 thước, vận tốc khoảng 7 - 8 hải lý một giờ. Như vậy, đoàn thương thuyền dài chừng 4 cây số.
- Các tầu dòng kéo xà lan đạn chạy chậm sẽ xen kẽ với những thương thuyền.
- Các giang đĩnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong có hỏa lực mạnh sẽ dẫn đầu để bắn mở đường. Nhưng giang đĩnh nhỏ còn lại cùng với các PBR thuộc Giang Đoàn 58 Tuần Thám di chuyển chung với đoàn thương thuyền để sẵn sàng yểm trợ khi cần.
- Những giang đĩnh hộ tống vừa di chuyển, vừa bắn tối đa vào bờ Đông để mở đường và uy hiếp tinh thần đối phương.
- Trong trường hợp bị tấn công vào giữa đoàn thương thuyền, những chiếc nào đã qua được ổ phục kích vẫn tiếp tục đi qua biên giới, những chiếc òn lại sẽ tạm ngưng máy tại chỗ để tầu Hải Quân tập trung hỏa lực tiêu diệt ổ phục kích địch.
Kế hoạch chuẩn bị xong xuôi, sáng hôm sau, đoàn thương thuyền nhổ neo lúc trời sáng để sắp xếp đội hình di chuyển. Khúc sông từ Tân Châu lên tới biên giới dài chừng 35 cây số, dự trù đoàn thương thuyền sẽ vượt qua trong vòng 4 tiếng đồng hồ, gồm 1 tiếng để vận chuyển vào đúng thứ tự giang hành và khoảng 3 tiếng để di chuyển.
Đúng 9 giờ sáng, chiếc Thiết Giáp Đĩnh của Giang Đoàn 26 Xung Phong dẫn đầu đoàn tầu rời Tân Châu, theo sau là hai cặp FOM yểm trợ. Những thương thuyền và xà lan đạn theo kế tiếp xen kẽ bằng những giang đĩnh Hải Quân hộ tống. Khoảng 10 giờ sáng, dưới hỏa lực mạnh mẽ của đại bác 40 ly trực xạ và súng cối 81 ly mở đường bắn vào những điểm nghi ngờ bên bờ Đông, đoàn tầu đi đến đồn Mương Kinh do Địa Phương Quân chi khu Hồng Ngự trú đóng an toàn. Nhưng khi vượt qua địa điểm này chừng vài cây số, Cộng quân từ những ổ phục kích đào sẵn trên bờ dưới nhưng lùm cây rậm rạp bắt đầu dùng súng B-40 bắn vào đoàn tầu khá dữ dội.
Theo đúng chiến thuật đã được trù tính trước, các giang đĩnh tập trung hỏa lực phản pháo dữ dội vào những ổ phục kích trên bờ sông. Những viên đạn đại bác 40 ly, 20 ly, M-79 và đại liên 50 cầy nát bờ sông làm tung lên một lớp bụi mỏng màu đỏ. Cây cối ngã gục dưới làn mưa đạn như bị đốn bằng một lưỡi hái khổng lồ. Một đoàn giang đĩnh đủ loại gồm cả các PBR trên 20 chiếc di chuyển thật chậm theo hướng Bắc, đội hình hàng dọc dài hơn 2 cây số khai hỏa tối đa về phía hữu hạm. Có lẽ vì hỏa lực quá mạnh của Hải Quân khiến đối phương hoảng sợ nên chúng chưa bắn trúng một thương thuyền nào. Các thương thuyền lúc đầu mất bình tĩnh khi bị bắn nên đội hình hơi rối loạn, nhưng khi thấy các giang đĩnh hải Quân phản pháo hữu hiệu, và nhất là thấy địch không gây được thiệt hại nào nên họ lại vững tâm di chuyển theo đúng đội hình đã được chỉ định. Dù bị tấn công, đoàn tầu vẫn di chuyển với tốc độ bình thường. Lúc này, nước đã bắt đầu ròng nên các tầu kéo xà lan đạn vận chuyển tương đối dễ dàng hơn, dù phải tăng máy để giữ đúng đội hình.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau, khi đoàn tầu gần tới mỏm cù lao đối điện đồn Bến Đình gần biên giới, đột nhiên từ bờ sông phía Đông lóe ra nhiều đốm lửa như những làn chớp, tiếp theo là những luồng khói trắng bay ra hướng đoàn tầu. Chiếc xà lan đạn di chuyển ở vị trí thứ 5 bỗng nổ tung. Cũng cùng lúc đó, trên giang đĩnh chỉ huy của Giang Đoàn 26 Xung Phong, các thủy thủ phát hiện một sợi giây nhỏ như sợi tơ từ trên trời rơi xuớng vắt ngang tầu. Thì ra, đây là sợi giây làm bằng Fiber Optic dùng để điều khiển loại hỏa tiễn AT-3, còn có tên là "Sagger" do Nga Sô chế tạo. Khi rời giàn phóng, hỏa tiễn AT-3 có mang theo một sợi giây nhỏ để xạ thủ có thể điều chỉnh đường bay trúng vào mục tiêu. Loại hỏa tiễn này thường chỉ được dùng để chống chiến xa, tương tự như loại hoả tiễn TOW (Tube-launch Optically-tracked Wire-guide) của Hoa Kỳ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam, Cộng quân xử dụng loại vũ khí tối tân này để bắn các giang đĩnh. May mắn, chiếc hỏa tiễn nhắm vào giang đĩnh chỉ huy đã bay hơi cao nên trật mục tiêu. Có lẽ xạ thủ không giám ngóc đầu lên để điều khiển vì bị hỏa lực dữ dội của các giang đĩnh áp đảo.
Tuy nhiên, chiếc xà lan đạn bị trúng hỏa tiễn phát nổ dữ dội. Không may, chiếc xà lan này chở toàn những bành đạn đại bác 105 và 155 ly nên sức tàn phá vô cùng khủng khiếp. Nguy hiểm hơn nữa, chiếc tầu dòng xà lan này đã mở dây kéo nên xà lan gặp nước ròng trôi ngược về phía đoàn tầu, vừa trôi đạn vừa nổ dữ dội với lửa và khói bốc lên mù mịt cả một khúc sông.
Tình thế lúc đó hết sức nguy hiểm và căng thẳng. Nếu tiếp tục cuộc hành trình, chắc chắn những thương thuyền to lớn và chậm chạp kia sẽ là những mục tiêu tốt cho các dàn hỏa tiễn AT-3 khá chính xác đang chờ sẵn trên bờ sông. Đó là chưa kể chiếc xà lan đạn bị nổ đang từ từ trôi ngược về hướng đoàn tầu, có thể tấp vào bất cứ một giang đĩnh hay thương thuyền nào gây thiệt hại nhiều thêm. Chẳng may nếu có một thương thuyền nào bị chìm, thủy đạo duy nhất sẽ bị tắc nghẽn! Do đó, ngoại trừ 4 thương thuyền đã vượt qua được biên giới hiện do Hải Quân Cam Bốt hộ tống, tất cả những chiếc còn lại được lệnh lập tức quay về điển neo Tân Châu dể chờ lệnh mới.
Để giải quyết chiếc xà lan đạn phát nổ đang trôi trên sông, Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 Xung Phong đã ra lệnh dùng súng đại bác 40 trực xạ bắn, nhưng lệnh chưa kịp thi hành thì xà lan tấp vào một đầu cồn không có dân cư tiếp tục nổ tới hết đạn nên không gây thiệt hại nào đáng kể.
4. Hộ Tống Lần Thứ Hai: Đưa Thương Thuyền Qua Biên Giới "Bằng Mọi Giá"!
Trong chuyến hộ tống không hoàn toàn thành công vừa qua, tuy có 4 thương thuyền vượt được biên giới, nhưng cả 4 tầu dầu tiếp tế nhiên liệu khẩn cấp cho Nam Vang đều bị kẹt lại. Cam Bốt lúc đó đang bị thiếu hụt nhiên liệu trầm trọng vì không được tiếp tế đã gần hai tháng. Vì vậy, khi được tin các tần dầu đều phải quay về, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, có lẽ dưới áp lực của người Mỹ, đã gửi công điện thượng khẩn ra lệnh "Đưa thương thuyền qua biên giới bằng mọi giá!" Lệnh này đã làm Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn Đặc Nhiệm Hải Quân rất khó xử, vì "bằng mọi giá" có nghĩa là chấp nhận thiệt hại đáng kể. Khi được yêu cầu giải thích rõ ràng thêm, thượng cấp cho biết: "Nếu cần, các giang đĩnh phải hy sinh nằm giữa lằn đạn địch và đoàn thương thuyền như một lớp khiên chắn đạn để đưa các thương thuyền qua biên giới"!
May mắn, tình hình chiến sự tại mặt trận Hồng Ngự lúc đó tương đối đã lắng dịu nên lực lượng Hải Quân có thể dồn hết nỗ lực vào công tác hộ tống. Ngoài ra, Trung Đoàn 15 Bộ Binh cũng khá rảnh rang, đang càn quét và đẩy lui tàn quân địch về bên kia biên giới nên cũng có thể tiếp tay.
Về phía Hải Quân, nếu thi hành ngay chỉ thị "bằng mọi giá" của thượng cấp khi địch quân vẫn còn làm chủ bờ Đông, các giang đĩnh và quân số sẽ bị thiệt hại nặng mà thương thuyền chưa chắc đã đi được. Ngược lại, nếu chần chờ, có thể Nam Vang sẽ hết nhiên liệu, hậu quả sẽ không lường được.
Sau khi bàn tính kỹ càng, các Đơn Vị Trưởng Hải Quân đồng ý cần phải phối hợp với Bộ Binh để nhổ bứt các chốt AT-3 dọc theo bờ Đông nếu muốn hoàn tất hộ tống. Dù sao, cuộc hành quân thủy bộ này cũng sẽ giúp Trung Đoàn 15 sớm hoàn thành nhiệm vụ của họ là quét sạch Cộng quân khỏi khu vực từ Hồng Ngự đến biên giới. Kế hoạch hành quân vào ngày N được Bộ Binh và Hải Quân đồng ý như sau:
- Một cánh quân thuộc Trung Đoàn 15 Bộ Binh từ vùng Thường Phước, mặt Bắc của Hồng Ngự, sẽ đánh dọc theo theo bờ Đông của sông Cửu Long từ hướng Nam lên Bắc, hướng về biên giới Việt - Miên.
- Hải Quân sẽ được tăng phái 2 Đại Đội Bộ Binh, bất thần đổ bộ lên bờ Đông gần biên giới, nơi nghi ngờ có các giàn hỏa tiễn AT-3. Nhiệm vụ của cánh quân này là càn quét từ Bắc xuống Nam, vừa đi vừa lục soát và tiêu diệt các ổ phục kích của địch. Sau đó, cánh quân này sẽ bắt tay với với thành phần từ mặt Nam đánh lên.
- Khi đổ bộ xong, các giang đĩnh sẽ lãnh nhiệm vụ yểm trợ cho Bộ Binh lục soát trên bờ, đồng thời án ngữ ngay tại những điểm nghi ngờ có ổ phục kích để hộ tống đoàn thương thuyền qua biên giới.
- Để đánh lạc hướng Cộng quân, phao tin đồn tại Tân Châu rằng các thương thuyền sợ bị thiệt hại nên sẽ nhổ neo trở về Vũng Tàu, bỏ ý định đi Nam Vang.
Tưởng cũng nên nói rõ, Cộng quân đã khai thác triệt để địa thế thiên nhiên của bờ Đông sông Cửu Long. Vì bờ sông cao như một bức tường thành dựng đứng nên chúng đào hầm từ trên mặt đất trổ ra bờ sông thành những lỗ châu mai như hình chữ Y lộn ngược trông xuống lòng sông. Từ những lỗ châu mai này, địch đặt các ổ súng B-40, hỏa tiễn AT-3 có thượng liên yểm trợ có thể nhắm bắn dễ dàng vào các tầu bè di chuyển trên sông. Khi giang đĩnh phản pháo, đạn đại liên nếu may mắn lọt vào lỗ châu mai cũng không gây thiệt hại đáng kể. Chỉ những loại đạn "chạm nổ" như đại bác 40 ly, đại bác 20 ly hay M-79 bắn trúng ngay mục tiêu mới làm chúng hoảng sợ.
Kế hoạch chuẩn bị xong xuôi, trong khi chờ đợi ngày N để hộ tống đoàn thương thuyền lên đường, các giang đĩnh Hải Quân vẫn ngày đêm tuần tiễu khúc sông từ Tân Châu tới biên giới để phát hiện và ghi nhận những địa điểm phục kích của địch quân. Giang đĩnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong tuy di chuyển chậm chạp hơn những PBR của Giang Đoàn Tuần Thám, nhưng lại có hỏa lực khá mạnh nên được dùng làm chim mồi dụ địch quân lộ diện.
Ban ngày, những chiếc LCM-6 chậm chạp qua lại trên sông với nước chứa đầy hầm tầu khiến giang đĩnh chìm sâu hơn dưới mặt nước. Đây là kế hoạch nghi binh khiến địch quân lầm tưởng những giang đĩnh chuyên về chuyển vận này đang chở quân hay chiến cụ đến một địa điểm bí mật nào đó. Ngoài ra, giang đĩnh di chuyển càng thấp sát mặt nước bao nhiêu, địch quân lại càng khó bắn trúng bấy nhiêu vì mục tiêu nhỏ hơn. Khi Cộng quân bắn ra, những giang đĩnh "chim mồi" di chuyển sát bờ sông phía Tây này chỉ bắn trả cầm chừng, vì nhiệm vụ chính là ghi nhận các tổ súng nặng đặt trong các miệng hầm thẳng đứng của chúng. Ban đêm, những giang đĩnh chuyển vận chậm chạp với tiếng máy lớn này dễ khiến cho địch quân để ý. Trong lúc đó, các PBR với vận tốc cao, di chuyển nhẹ nhàng sẽ lẻn sát bờ sông, dưới tầm súng của Cộng quân để dùng súng phóng lựu M-79 bắn vào các lỗ châu mai đã bị phát hiện của chúng. Chiến thuật này tỏ ra khá hữu hiệu vì đã tiêu diệt được một số ổ phục kích của địch quân.
Khoảng nửa đêm ngày N-1, Giang Đoàn 26 Xung Phong nhận 2 Đại Đội thuộc Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại Hồng Ngự. Ba chiếc LCM-6 chở quân được 2 cặp FOM và chiếc Thiết Giáp Đĩnh hộ tống lên đường hướng về phía biên giới cách Hồng Ngự chừng 40 cây số, Những giang đĩnh còn lại vẫn tham dự cuộc khuấy rối hàng đêm như thường lệ với các PBR của Giang Đoàn 58 Tuần Thám.
Nhận quân xong, toán giang đĩnh rời bãi ủi Hồng Ngự, trực chỉ hướng Bắc. Đêm không trăng, những lùm cây rậm rạp bên bờ sông dường như dầy đặc hơn, trở thành những bóng ma đe dọa. Xa xa, chếch về hướng tay trái, ánh đèn điện của thị xã Tân Châu phản chiếu xuống mặt sông Cửu Long trông như những cặp mắt còn ngái ngủ. Tuy phải di chuyển về đêm, nhưng tất cả đèn trên các giang đĩnh đều được tắt hết để bảo mật. Các chiến sĩ Hải Quân đã quá quen thuộc với khúc sông này nên việc điều khiển con tầu không có gì trở ngại. Mọi người đều nóng lòng mong cho tới ngày hôm sau để sớm hoàn tất chuyến hộ tống gay go này. Trên cặp FOM dẫn đầu, vị Trung Úy trưởng toán đổ bộ bận rộn liên lạc trên máy truyền tin PRC-25 với những "con cá" trong đoàn, đồng thời duyệt lại kế hoạch với toán đổ bộ. Đoàn tầu di chuyển theo đội hình hàng dọc, mỗi chiếc cách nhau chừng 100 thước, vận tốc chừng 5 hải lý một giờ. Mặc dù với vận tốc chậm, nhưng tiếng máy dầu cặn như vẫn gầm rú trong đêm vắng, chắc chắn không thể nào tránh được sự chú ý của địch quân.
Chính vì không che mắt được địch quân nên Bộ Chỉ Huy Giang Đoàn 26 Xung Phong đã có kế hoạch hy vọng có thể khiến địch quân lạc hướng. Vừa qua khỏi Tân Châu với những ánh đèn vàng vọt hầu như đã nằm sau lái, tới đầu cồn đối diện với đồn Mương Kinh, đoàn giang đĩnh đột nhiên được tách ra làm hai. Các giang đĩnh chở quân và hộ tống đổi đường ép qua phía tay trái đi vào lạch sông nhỏ phía trong cồn để tránh bị phát hiện. Giờ này mức thủy triều cò khá cao nên không sợ bị mắc cạn. Chắc chắn vì đêm tối và bị cồn che khuất, Cộng quân bên kia bờ sông sẽ không nhận ra toán giang đĩnh quan trọng này. Những chiếc còn lại trong đoàn vẫn tiếp tục di chuyển phía ngoài cồn như trong các cuộc tuần tiễu thường lệ hàng đêm.
Rạng sáng ngày N, các LCM-6 chở quân đã tới sát đồn Bến Đình gần biên giới. Còn gần 2 tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ G nên tạm ủi bãi, nằm chờ tại đầu cồn. Lúc này, chiếc Giang Pháo Hạm 328 do Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi tăng phái để yểm trợ hỏa lực cũng đã đến Tân Châu và đang vận chuyển vào vị trí yểm trợ hải pháo. Chiến hạm này do Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Như Phú làm Hạm Trưởng. Thiếu Tá Phú nguyên xuất thân Khóa 16 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, nhưng chọn Quân Chủng Hải Quân nên sau khi tốt nghiệp lại theo học Khóa 13 SQHQ Nha Trang. Giang Pháo Hạm 328 được trang bị một khẩu đại bác 76 trước mũi và nhiều dàn đại bác 40 ly và 20 ly. Quan trọng hơn, vì chiến hạm có tầm súng cao, lại có hỏa lực mạnh nên có thể tiêu diệt những mục tiêu nằm sâu trong đất liền. Vì Cộng quân đang chiếm giữ bờ sông phía Đông từ đồn Mương Kinh lên tới biên giới nên chiến hạm được chỉ định "nấp" sau đuôi cồn gần đồn Mương Kinh để tránh hỏa tiễn AT-3 của địch.
Đúng 8 giờ sáng ngày N, các đơn vị hành quân đã vào đúng vị trí. Từ vùng Thường Phước, cánh Bộ Binh di chuyển dọc theo bờ sông, đánh về hướng Bắc. Trong lúc đó, Giang Pháo Hạm 328 tác xạ mở đường vào những mục tiêu nghi ngờ có địch ẩn núp. Riêng Giang Đoàn 26 Xung Phong có nhiệm vụ đổ quân vào bờ đối diện với đồn Bến Đình cũng thi hành nhiệm vụ giao phó. Tất cả các giang đĩnh đều dàn hàng ngang với những chiếc LCM-6 chở quân nằm giữa đội hình, từ đồn Bến Đình đâm thẳng qua mục tiêu đối diện bên bờ Đông, vừa di chuyển vừa tác xạ tối đa để dọn bãi. Chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chừng 15 phút, các giang đĩnh đã đến điểm đổ bộ. Trong lúc những giang đĩnh yểm trợ ủi bãi cách nhau chừng 100 thước và tác xạ tối đa vào các bụi tre và lùm cây trước mũi, các LCM-6 chở quân hạ cửa đổ bộ dể quân lên bờ. Đúng lúc này, có một trục trặc nhỏ khiến cuộc đổ quân không được xuông xẻ như ý muốn: cửa đổ bộ của một LCM-6 bị kẹt nên không hạ xuống được. Tình trạng khá nguy hiểm vì nếu lúc này địch bắn B-40 hay hỏa tiễn vào giang đĩnh, toán bộ binh kẹt trong lòng tầu sẽ bị thiệt hại nặng. Để giải quyết tình trạng khó khăn này, lậo tức hai chiếc FOM được điều động đến cập hai bên chiếc LCM-6 để bộ binh dùng làm cầu lên bờ. Rất may, Cộng quân có lẽ vì bị bất ngờ nên vẫn chưa thấy phản ứng.
Hai Đại Đội Bộ Binh vừa lên bờ đã tràn vào các bụi tre và lùm cây trước mặt để lục soát, trong lúc các giang đĩnh rời bải ủi, di chuyển với vận tốc chậm theo hướng Nam phía Tân Châu, vừa yểm trợ cho toán Bộ Binh trên bờ, vửa chuẩn bị nằm đường đón đoàn thương thuyền đang được những PBR hộ tống từ Tân Châu lên.. Chỉ chừng nửa tiếng đồng hồ sau khi đổ bộ, toán Bộ Binh báo cáo đã tịch thu được 3 giàn hỏa tiễn AT-3 còn nguyên vẹn, mỗi giàn có 2 trái hỏa tiễn đang trong tình trạng sẵn sàng phóng. Những giàn hỏa tiễn này được đặt trong hầm hố đào dưới gốc các bụi tre gần bờ sông. Cạnh đó, còn có 9 địch quân bị banh xác vì hỏa lực dọn bãi của các giang đĩnh và 2 tên bị thương bị bắt sống.
Lúc đó, các thương thuyền cũng đã bắt đầu ló dạng, trên đường tiến tới biên giới. Các ổ súng đại bác trên Giang Pháo Hạm 328 hoạt động tối đa, bắn vào các vị trí do Bộ Binh yêu cầu yểm trợ. Khoảng 11 giờ sáng, khi chiếc thương thuyền đầu tiên đã đến gần biên giới, các giang đĩnh ghi nhận Công quân bắn ra 3 trái hỏa tiễn AT-3 hay B-40 hoặc súng cối phát nổ dưới sông, không gây thiệt hại đáng kể nào cho các thương thuyền cũng như giang đĩnh. Chỉ có một số nhân viên Hải Quân bị thương nhẹ, trong số đó Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 Xung Phong trúng mảnh đạn vào cánh tay trái.
Khoảng 12 giờ trưa, các thương thuyền vượt qua biên giới an toàn và được bàn giao cho toán giang đĩnh thuộc Hải Quân Cam Bốt đang chờ sẵn. Hoàn tất công tác hộ tống, các giang đĩnh Hải Quân dồn hết nỗ lực để yểm trợ cho hai cánh quân đang lục soát trên bờ. Hai cánh quân Bộ Binh vẫn tiến dọc bờ sông theo hướng ngược chiều nhau, vừa đi vừa lục soát. Họ báo cáo bắn hạ khoảng 30 tên địch tại chỗ và phát hiện nhiều tên khác đã bị chết vì hỏa lực của Hải Quân. Đến chiều cùng ngày, hai toán Bộ Binh bắt tay nhau tại một địa điểm cách đồn Mương Kinh chừng 3 cây số về hướng Bắc. Cuộc hành quân coi như hoàn tất.
Tổng kết hoạt động trong ngày, Hải Quân hoàn tất việc hộ tống đoàn thương thuyền lên Nam Vang trong khi Bộ Binh quét sạch địch quân ra khỏi lãnh thổ quận Hồng Ngự. Thiệt hại phía Cộng quân bị chết 49 tên đếm xác được tại chỗ, 2 tên bị bắt sống, 3 giàn hỏa tiễn AT-3 còn nguyên vẹn bị tịch thu cùng với 3 súng cộng đồng và 19 súng cá nhân. Bạn thiệt hại 3 chết và 16 bị thương. Phía Hải Quân có 3 bị thương nhẹ.
Nhiệm vụ tăng phái cho Tiểu Khu KIến Phong và Trung Đoàn 15 Bộ Binh để giải tỏa áp lực địch tại vùng Hồng Ngự của Giang Đoàn Xung Phong coi như hoàn tất. Tổng cộng, toàn bộ đơn vị đã liên tục hành quân trong hai tháng ròng rã.
IX. Đoạn Kết
Chiến dịch Hồng Ngự chỉ là một cuộc hành quân tương đối nhỏ cấp Trung Đoàn, nhưng kết quả lại rất lớn: bẻ gẫy ý đồ phong tỏa thủy lộ sông Cửu Long của Cộng quân, đồng thời với sự yểm trợ hữu hiệu của Hải Quân, địch đã bị thiệt hại rất nặng với tổng cộng 422 xác định đếm được tại chỗ. Theo cung từ của tù binh, vào cuối tháng 5/1973 khi chiến dịch chấm dứt, Trung Đoàn 207 của Cộng quân coi như không còn khả năng tác chiến, mỗi Tiểu Đoàn của chúng còn lại không đầy 100 tên. Tuy thiệt hại về phía QLVNCH tương đối nhẹ, nhưng thường dân bị chết và bị thương khá nhiều vì đạn pháo kích của địch quân. Chỉ riêng trong tuần lễ thứ nhì của tháng 4, Cộng quân đã pháo kích trên 100 trái hỏa tiễn vào Hồng Ngự.
Vai trò quan trọng của Giang Đoàn 26 Xung Phong trong chiến dịch Hồng Ngự được coi như hoạt động tiêu biểu của các Giang Đoàn Xung Phong thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi. Tuy hậu cứ đóng tại Long Xuyên, nhưng các giang đĩnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong đã từng có mặt tại hầu hết những vùng xa xôi hẻo lánh như Đồng Tháp Mười, Cái Cái, hay các địa danh xa lạ thuộc vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ như Năm Căn, Đồng Cùng, Cái Ngay, Cái Nước, Thới Bình, Khai Quang, Biện Nhị, Sông Trèm Trẹm, Vị Thanh, Hỏa Lựu, Gò Quao v.v... Tại bất cứ chiến trường nào dù nguy hiểm đến đâu, các chiến sĩ của Giang Đoàn cũng ghi lại những chiến tích vẻ vang, dù lắm khi phải đổi bằng máu.
Giang Đoàn 26 Xung Phong không những là một đơn vị Hải Quân kỳ cựu, nồng cốt tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, mà còn là một đơn vị ưu tú được các quân binh chủng bạn cũng như đồng bào mến phục. Hiện nay, có rất nhiều cựu chiến sĩ áo trắng đã từng phục vụ tại Giang Đoàn 26 Xung Phong đang lưu lạc tại Hoa Kỳ hay những quốc gia khác trên thế giới. Đa số các bạn này vẫn thường nhắc nhở tới những giòng sông nơi họ đã từng anh dũng chiến đấu và đổ máu trong trách vụ bảo vệ quê hương. Ngoài ra, Long Xuyên với cầu Hoàng Diệu, công viên Nguyễn Du, trường Thoại Ngọc Hầu v.v... cùng những tà áo dài duyên dáng cũng là một điểm dừng chân đáng nhớ trong binh nghiệp ...



Autin, Texas - Tháng 5/2000
Trần Đỗ Cẩm